MÊ TÔNG CHI QUỐC



Năm giác quan của Tư Mã Khôi nhạy bén hơn người, anh phát hiện phía sau có vật gì đó đang liếm cao chảy ra từ thi thể người chết. Không dám rút dây động rừng, anh cố ý đi chậm lại rồi đột ngột quay ngoắt người về phía sau, trong tay lăm lăm khẩu súng thần công, đồng thời rọi chùm sáng của đèn quặng về phía vách đá cheo leo dựng đứng. Có điều động tác của Tư Mã Khôi tuy rất thần tốc, nhưng tốc độ của vật bò trên vách tường còn nhanh hơn mấy lần, nó dường như rất sợ ánh sáng, phát hiện thấy sự chuyển động của chùm sáng phát ra từ đèn quặng, nó bèn “chiu” môt cái thu mình chui tọt vào trong khe nứt.



Đến khi Tư Mã Khôi quay người nhìn thì chỉ thấy trống trơn. Anh đang định nhìn xem nó rốt cục là thứ gì, thì đột nhiên có một luồng sáng mạnh từ trên không dội xuống, những vết tích còn sót lại giống như những bức bích họa của người chết bị ánh sáng chiếu vào ánh lên một màu trắng bệch. Tư Mã Khôi lập tức phát hiện thấy sự xuất hiện của chùm sáng trên cao, nhưng địa cốc dưới lòng Đại Sa Bản quanh năm không thấy ánh măt trời, sao đột nhiên lại có vật chất phát sáng xuất hiện đươc nhỉ? Anh chưa kịp ngẩng đầu lên nhìn kỹ thì nghe một tiếng nổ ầm ầm phát ra từ trên cao, trong không gian nhỏ hẹp dựng đứng của vách cheo, âm thanh đó càng thêm vang dội. Âm thanh được truyền từ trên xuống dưới, cũng không biết được khuếch đại thêm bao nhiêu lần nữa, chi biết khi nó dội đến tai thì ai nấy đều cảm tưởng như thể trời long đất lở, thật chẳng khác gì: “một trận gió bẻ gập ngàn thân trúc, mười vạn quân rầm rập giữa trời đêm.”



Giáo sư Nông và mọi người cùng nghe ngóng động tĩnh, đồng thời ngẩng đầu lên nhìn: chỉ thấy trên cao sáng rực, một sợi mây đỏ từ không trung ép nhào xuống, mấy làn lửa xanh âm u từ trong vụt lướt qua, ngoằn ngoèo như rắn lượn giữa không gian vách đá cheo leo. Luồng sóng lứa bỏng rẩy trong phút chốc bốc thẳng xuống cốc. dường như quật tất cả mọi người ngã rạp ra. Ai nấy đều không thể mở mắt hay nói năng gì, vội người cúi đầu thật thấp né tránh.



Tư Mã Khôi rạp hẳn xuống đất mà vẫn cảm nhận được hơi lửa nóng rát không thể chịu nổi, toàn thân tựa hồ bị dòng lửa nóng làm tan chảy đến nơi, nhưng đầu anh vẫn khá tỉnh táo. Anh biết chắc có người đã dẫn cháy mạch quặng diêm tiêu từ trên cao. Điểm cháy của chất diêm tiêu tiềm tàng trong tầng đất giữa lòng núi, cao hơn rất nhiều so với vật chất phân rã thể khí, nếu không gặp tia lửa hoặc thuốc nổ thì nó không dễ gì xảy ra hiện tượng tự bốc cháy.



Tình hình giờ đây đã đủ chứng minh cho suy đoán của đại đội trưởng Mục là chính xác: quả nhiên có phần tử nội gián âm thầm trốn trong bóng tối, âm mưu quấy nhiễu, phá hoại hành động thăm dò kính viễn vọng Lopnor của họ. Bây giờ ta ở ngoài ánh sáng mà địch lại ở trong bóng tối nên rất khó phòng bị.




Ngọn lửa cao mấy trăm mét – do mạch quặng diêm tiêu cháy nổ tiếp tục duy trì khoảng mười mấy phút, đến khi ngọn lửa hung bạo bắt đầu suy yếu thì lưng chừng địa cốc chỉ còn lại cột khói dày đặc bốc lên ngùn ngụt. Mọi người liên tiếp ho sặc sụa, ai nấy giãy giụa tìm cách đứng lên, tìm đập thình thịch, trong lòng bất giác thầm kêu: “ May quá! Nếu chỗ này không phải nơi sâu nhất địa cốc thì có lẽ tất cả mọi người đã bị cột lửa thiêu sống thành than hết rồi, nói không chừng thì ngay cả tro cốt cũng không còn ấy chứ”.



Trong khi hồn phách vẫn chưa định thần lại được thì đất cát vụn xung quanh lại bắt đầu rào rào rơi xuống, đại đội trưởng Mục lạnh buốt tận tim, anh khản giọng hét lớn: “Chết tiệt! Lở núi rồi!”.



Chất diêm tiêu chỉ cần điều chế một chút là có thể sử dụng để chế thành thuốc nổ đen. Mạch quặng lộ thiên trong lòng núi bị dẫn cháy, tuy chưa đủ sức để sản sinh lực phát nổ liên tiếp, nhưng cũng đủ để phá hủy lớp vỏ đất yếu ớt dưới lòng Đại Sa Bản. Tình hình này giống như khoét một hố ở đáy túi, một lượng lớn cát nổi lập tức ầm ầm đổ xuống cùng với lớp vỏ đất sụt lở, màn cát bụi bay mù mịt như sương khói giữa không trung.



Đại đội trưởng Mục thấy tình hình nguy hiểm vội hét to: “Mau chạy thôi!”. Anh thấy đội trưởng liên lạc Lưu Giang Hà sợ hãi đến ngây người, bàn chân như bị quét nhựa đường không thể xê dịch nổi nửa bước, liền gào lên: “Mẹ nó chứ, chết tiệt thật!” – nhưng thác cát ầm ầm xối xả chảy xuống đáy cốc như nuốt chửng mọi âm thanh, mặc kệ đại đội trưởng vắt kiệt sức gào thét đến đâu, mọi người vẫn không nghe thấy nửa lời.



Đại đội trưởng Mục đành phải xông lên xô mạnh Lưu Giang Hà ra chỗ khác, ai ngờ chính mình lại bị một tảng đá lớn từ trên cao rơi trúng đầu, tuy anh đội mũ cối nhưng đầu vẫn bị đập nát, máu me bê bết, cả người đổ xuống, quỳ gục trên nền cát bụi, trong nháy mắt dòng cát đã vùi lấp quá nửa cơ thể anh.



Tư Mã Khôi đứng bên cạnh nên trông thấy cảnh tượng thảm khốc khi đại đội trưởng gặp nạn. Lưu Giang Hà dù sao tuổi vẫn còn trẻ, nhưng đầu óc anh ta lúc này trở nên mụ mị hoàn toàn, không để ý bản thân cũng sắp bị dòng cát lún hung bạo nuốt chửng, anh chàng dùng tay đào bới để móc đại đội trưởng ra khỏi đống cát cao quá người, nhưng đành bất lực vì hỗn độn đất đá quá thô cứng. Anh chàng bổ tay vào cát cào thêm mấy cái như phát rồ, mười đầu ngón tay dập nát, da thịt phía trên mài mòn lộ ra cả xương trắng, máu chảy ròng ròng.



Tư Mã Khôi lặng người nhưng vẫn cố bình tĩnh suy nghĩ, anh biết đại đội trưởng Mục bị đá rơi trúng đầu, lại còn bị cát lở vùi lấp như vậy, chắc chắn không thể cứu được, trong khi đó dòng cát lún vẫn chảy ầm ầm như thác đổ mà không hề suy yếu, ngay cả thi thể không khéo cũng chẳng kịp đào lên chứ nói gì cứu sống. Thế là Tư Mã Khôi giơ tay nắm chặt lấy cổ áo sau của Lưu Giang Hà lôi xềnh xệch đi như dắt chó, rồi bám sát vách đá chạy như bay trốn tránh dòng cát lún. Khi họ vừa xuyên qua một tấm dày đặc thì thấy giáo sư Nông địa cầu chạy không kịp, cũng đang bị cát vùi, may mà độ phủ lấp không sâu nên Hải ngọng và Thắng Hương Lân mới kịp quên mình nhào ra cứu sống.



Lợi dụng những rãnh lõm ở hai bên vách đia cốc, mọi người đi sát bên dưới tránh né cát lún đá vụn rơi xuống. Không biết họ đã dò dẫm bao xa trong làn cát bụi mịt mù. Khi thấy bên tai âm thanh cát đá rơi ầm ào dần ngớt xuống, Tư Mã Khôi mới dám dừng chân, lau lớp cát bụi phủ mờ trên kính chắn gió. Anh dùng đèn quặng soi phía sau, phát hiện một lượng cát đá rất lớn đổ xuống từ lòng núi lở, đã bịt chặt khít đoạn địa cốc mà phân đội khoan thăm dò từng lâm nạn.



Những người còn lại ngồi phịch xuống đất, co người ủ rũ. Tư Mã Khôi thấy địa thế xung quanh tương đối khoáng đạt, mới tạm yên tâm đỡ giáo sư dậy để kiểm tra tình hình vết thương, anh thấy đầu giáo sư bị rách một vết lớn, mất máu khá nhiều, ông đã rơi vào trạng thái hôn mê bất tỉnh.



Thắng Hương Lân vội vàng mở hộp cứu thương, đắp thuốc băng miệng vết thương cho giáo sư. Cô theo phân đội trắc họa đi công tác khắp nơi, chỉ học sơ qua một số biện pháp cấp cứu đơn giản mà thôi, nên không phán đoán được thương tích của giáo sư rốt cục có nguy hiểm đến tính mạng hay không, nhưng chỉ cần người sáng mắt là có thể trông thấy rõ mồn một tình hình của giáo sư không được lạc quan cho lắm.



Tư Mã Khôi thấy hai mắt đội trưởng liên lạc Lưu Giang Hà đỏ ngầu, khóc nấc nghẹn không dứt, thì biết anh chàng bị sốc quá mạnh bởi cái chết của đai đôi trưởng Mục. Tuy Tư Mã Khôi không lớn hơn Lưu Giang Hà nhiều tuổi, nhưng đã từng tận mắt chứng kiến biết bao cái chết nơi sa trường, nên anh hiểu: nếu không giải phóng được tâm lý bi thương, thì sớm muộn gì nó cũng dày vò người ta đến phát điên, thế là anh bèn sắc giọng mắng Lưu Giang Hà: “Cậu tòng quân, mẹ kiếp, cũng bao nhiêu năm rồi nói gì cũng đường đường là một đội trưởng. Đại đội trưởng Mục bị tên nội gián mai phục dưới địa cốc hại chết, cậu không chuẩn bị báo thù cho anh ấy thì thôi, lại còn ngồi đây khóc lóc nỉ non y như đàn bà. Cậu còn mặt mũi nào mà sống tiếp nữa hả? Tốt nhất cứ chết chìm trong vũng nước đái của mình cho sớm chợ.




Thắng Hương Lân nghe không lọt tai, cô nhíu đôi mày thanh tú, đứng dậy hỏi Tư Mã Khôi: “Đại đội trưởng Mục mới hi sinh cách đây không lâu, trong lòng ai mà chẳng buồn rầu, việc gì anh phải nói những lời nghe chối thế hả, câu nào cũng như dao cứa vào tim người ta, anh mới thấy hả dạ sao?”



Hải ngọng phải giải thích hộ Tư Mã Khôi: “Cô Hương Lân à! Cái này thì cô trách nhầm Khôi rồi, hồi xưa tôi tham gia cách mạng thế giới ở Miến Điện, chúng tôi đều được phát một cuốn ‘Nhật ký của Che Guevara’, trong đó viết một câu rất rõ ràng thế này: ‘Thù hận là nhân tố tối quan trọng trong chiến đấu; mối hận khắc cốt ghi xương có khả năng khiến người ta vượt qua giới hạn chịu đựng của cơ thể, trở thành một cỗ máy giết người hiệu quả, bạo lực, có tính chọn lọc và máu lạnh nhất’”.



Tuy Thắng Hương Lân không hiểu đạo lý này lắm nhưng cô phát hiện lời của Tư Mã Khôi dường như bắt đầu phát huy tác dụng nào đó, vì anh đội trưởng Lưu Giang Hà dần dần ngớt tiếng bi ai. Cô không nhắc lại chủ đề này nữa, mà quay sang hỏi Tư Mã Khôi: “Trước đây, giáo sư từng dặn dò chúng ta, nếu bác ấy gặp nạn anh sẽ thay bác chỉ huy cả đội, thế bây giờ anh đã có kế hoạch gì chưa?”



Tư Mã Khôi nói thẳng: “Tôi cũng chỉ biết cố gắng hết sức, dốc toàn tâm toàn lực mà thôi, nếu không làm được thì tôi cũng không dám miễn cưỡng. Lúc trước, giáo sư nói trong đường hầm Lopnor có máy điện đàm Liên Xô, bây giờ máy điện đàm quang học của chúng ta bị hỏng, cần tìm linh kiện thay thế từ chiếc máy do Liên Xô chế tạo mới mong sửa được nó. Vả lại hiện giờ chúng đã tuyệt đường rút lui rồi, nghĩa là đã hoàn toàn cắt đứt liên lạc với thế giới bên ngoài, lương khô mang theo có thê duy trì thêm mấy ngày nữa, nhưng nước trong bình sắp cạn tới đáy rồi.



Theo tôi, bây giờ chúng ta chỉ còn cách tiếp tục đi xuyên qua khu vực chính của địa cốc, tìm thấy dòng sông ngầm trong di chỉ Hắc Môn của Lâu Lan; có điều tìm kiếm đội khảo sát liên hợp Liên – Trung bị mất tích trong cực vực sâu thăm thẳm như động không đáy năm đó, chẳng khác nào mò kim đáy bể, nên khả năng thành công vô cùng nhỏ bé. Thực ra kế hoạch này cũng chẳng có gì đáng gọi là kế hoạch, chỉ là đã chọn một con đường thì phải quyết đi đến cùng thôi. Nhưng tình trạng vết thương của giáo sư khá nghiêm trọng, bất kể đội thám hiểm có đến được kính viễn vọng Lopnor hay không, thì cũng chưa chắc đã bảo toàn nổi tính mạng cho bác ấy. Kết quả cuối cùng ra sao, chúng ta chỉ còn cách xem tạo hóa xoay vần thế nào mà thôi.”



Hải ngọng cũng lo lắng cho giáo sư, nhưng câu nào thoát ra từ miệng anh, thì câu nấy nghe cứ ngang phè: “Khôi ơi là Khôi! Thế mà cũng đòi là kế hoạch hả? Cậu tưởng bất kể có điều kiện hay không, chỉ cần vác bó đuốc đốt một cái là xong à? Cái tư tưởng này của cậu quá ư là chủ nghĩa đầu cơ mạo hiểm và chủ nghĩa liều mạng rồi còn gì. Ông bác Nông hói cũng thật là, tìm ai chỉ huy không tìm lại tìm ngay cậu. Luận về mức độ giác ngộ tưởng hay tác phong kỷ luật, thì Hải ngọng tớ đều ăn đứt hạng bát lộ quân quê mùa nhà cậu, sao ông bác không chỉ định tớ nhỉ? Thằng ranh con nhà cậu chẳng qua chỉ là kẻ chủ nghĩa manh động điển hình. Ở Miến Điện, sau khi gặt hái được thành công ngẫu nhiên trong núi Dã Nhân, chẳng lẽ cậu vẫn chưa nghiêm túc rút kinh nghiệm lại à? Lại còn huênh hoang sự mù quáng của mình với bàn dân thiên hạ nữa chứ. Tớ thấy đội ngũ của chúng ta mà rơi vào tay cậu, thì sớm muộn gì cũng xong đời, chẳng khác gì linh bài nằm trong tay quả phụ trẻ đâu.”



Thắng Hương Lân vẫn không quen cách nói chuyện của hai người bọn họ, cô không kiềm chế được, bèn giận giữ nói: “Giáo sư đã tín nhiệm hai anh như thế, mà các anh lại coi thường sự sống chết của bác ấy. Khi nãy anh Khôi còn không biết xấu hổ, dày mặt dạy dỗ người ta, nhưng chính bản thân lại vong ân phụ nghĩa, không giống với hành động mà một bậc đại trương phu nên làm chút nào.



Tư Mã Khôi biết Thắng Hương Lân căn bản không hề tin tưởng mình, môi trường trong địa cốc lại vô cùng nguy hiểm, nên sự tin tưởng lẫn nhau giữa nội bộ các thành viên trong đoàn là điều quan trọng nhất trong các điều quan trọng, vì thế anh đành nhẫn nại giải thích với cô: “Tư Mã Khôi tôi sống hai mươi mấy năm trên đời, cũng trải qua không ít sóng gió cuộc đời, nhưng bây giờ ngồi nghĩ lại thấy mình chưa bao giờ bị cuốn theo sóng gió. Bố mẹ tôi bị quy chụp là thành phần hữu khuynh thời kỳ đầu cách mạng, mười mấy tuổi tôi bắt đầu nghỉ học, bất đắc dĩ lang thang kiếm sống trong một khu ổ chuột ở vùng ngoại ô, sau đó theo chân người khác chạy đến Miến Điện tham gia đội du kích cộng sản. Khi quân Cộng sản Miến Điện tan rã, tôi chạy trốn về Trung Quốc và lại tiếp tục những ngày tháng vất vưởng không có việc làm như trước, chỉ biết nương tựa vào đường sắt kiếm miếng cơm, nếu không thì đã bị tống ra vùng Bắc Đại Hoang tít tận Hắc Long Giang khai khẩn đồn điền rồi.



Lúc đó, tôi thực sự tin vào số mệnh, số mệnh của tôi chính là cặn bã của cái xã hội này, bởi vì tôi sống trong tầng lớp này nên đến chết vẫn không thể giãy giụa thoát ra khỏi nó, sống thì không thoải mái, chết thì không sảng khoái. Sau này, may nhờ giáo sư thu nạp và dạy dỗ, tôi mới đoạn tuyệt với kiếp sống bôn ba trên tàu hỏa nuôi lợn, ơn đức này của bác làm sao tôi quên được. Vấn đề là cho dù bây giờ tôi có cào ngực hay giãy giụa khóc lóc, thì vết thương của bác ấy có chuyển biến tốt lên được không? Tôi thấy hiểm nguy trong địa cốc mai phục tứ bề, chúng ta đều đang đặt mình trong vòng nguy hiểm, có lẽ phải tìm cách khắc chế xúc cảm của bản thân, cố gắng giữ vững tâm lý bình tĩnh, đừng làm những việc vô nghĩa, sẽ là cách tốt hơn cả.”



Thắng Hương Lân thấy Tư Mã Khôi nói có lý, thái độ khi nói cũng rất chân thành, nên cô liền nảy sinh sự tin tưởng đối với anh, thậm chí còn tỏ ra áy náy vì lúc trước đã trót trách nhầm anh.




Cô không hề hay biết Tư Mã Khôi là người rất giỏi thuyết phục người khác, tuy rằng nội dung anh vừa nói đều là sự thực, duy chỉ có động cơ đích thực khiến anh và Hải ngọng đầu quân cho giáo sư Nông là không hề nhắc đến một chữ mà thôi. Bởi nếu anh nói rõ sự tình thì có khi nó lại phản tác dụng cũng nên. Anh thấy sau khi moi người thoát khỏi đại nạn, tinh thần bắt đầu ổn định trở lại, mới kể lại sự lạ mà mình phát hiện thấy ở chỗ mấy bức bích họa chết chóc, xem ra nguy hiểm rình rập trong địa cốc nhiều vô kể, tình hình quân địch lại diễn biến rất phức tạp, mà trong mấy người chúng ta chỉ có đại đội trưởng Mục là có kinh nghiệm phản gián, nên sự hi sinh của anh ấy là tổn thất rất lớn đối với chúng ta. Ngoài ra, giáo sư cũng hôn mê bất tỉnh vì vết thương quá nặng, không thể tiếp tục chỉ đạo mọi người hành động. Bởi vậy, trước mắt chúng ta chỉ còn cách tự tạo ra lợi thế trong hoàn cảnh hoàn toàn bất lợi này, mọi người cần phải đề cao tinh thần cảnh giác hơn nữa, chú ý thật kĩ mọi động tĩnh xung quanh, tuyệt đối không được lạc đoàn.



Tư Mã Khôi nói xong, bèn tìm một cành cây rơi từ đỉnh núi xuống, cầm dao vót thành gậy. chu vi cáng gậy to như quả trứng, rồi dùng dây thừng mang theo bên mình, tự chế thành một cái cáng đơn giản. Anh cùng Hải và Lưu Giang Hà, ba người thay phiên nhau khiêng giáo sư Nông, Thắng Hương Lân giúp họ giơ cao đèn quặng dò đường.



Họ dùng kim chỉ Bắc để xác định phương hướng, rồi men theo địa cốc sụt lở, tiến sâu vào khu vực chính của hẻm núi Hắc Môn. Hẻm núi lớn dưới lòng đất này tồn tai một lịch sử chấn động loài người, tận cùng của nó là nơi mai táng thi thể của tiên vương khai quốc Lâu Lan cổ tên là An Quy Ma Nã, đồng thời cũng là kho báu vô cùng to lớn giữa chốn nhân gian. Nó ẩn mình giữa hai vách đá cheo leo nằm sâu hàng ngàn mét dưới lòng Đại Sa Bản, lặng lẽ chứng kiến sự luân hồi dâu bể suốt hai ngàn năm qua.



Ngay từ trước khi vương triều nước Thiện Thiện tiêu vong, khu vực này vẫn là nơi thờ cúng thần thánh của người Lâu Lan. Nhưng trải qua những năm tháng, từ cuối thời Thanh đến thời Dân quốc, không biết bao nhiêu nhà thám hiểm, bao kẻ săn tìm bảo vật và cả lũ thổ phỉ, mã tặc ô hợp, đều không quản ngại nguy hiểm tính mạng, đã tìm cách vượt sa mạc Gobi đến đây tìm kỳ châu dị bảo chôn chặt trong lòng Hắc Môn. Thế nhưng đến tận giờ, vẫn chưa ai hiểu rõ Hắc Môn rốt cục là thế giới như thế nào, nó giống cái miệng đen ngòm đang mở rộng chờ sẵn của ác quỷ, hết tốp người này đến tốp người khác tự nguyện đến cống nạp sinh mạng cho nó, còn nó thì khiến họ chỉ có đường đi mà không có lối về.



Hội Tư Mã Khôi đi khá lâu mới đến nơi sâu trong hẻm núi. Địa thế ngày càng mở rộng hơn, hai mạn lòng chảo con sông cổ khô cạn trải đầy cát vàng, ven đường đi bắt gặp rất nhiều bộ hài cốt, một số chỗ còn vương vãi cả xương vụn, một số đã khô quắt như xác ướp, dường như chúng đều là xác của bọn thổ tặc đến đây khai quật bảo vật rồi bỏ mạng từ trước. Có lẽ chỉ những xác chết đó mới biết rõ vì sao mình lại gục đổ trên con đường trải đầy điều kỳ bí này.



Trong lúc mọi người đang chán ngán trước cảnh tượng những triền cát khô hạn, bước chân cũng bắt đầu trở nên nặng nề vì mệt nhọc, thì đột nhiên đường đi bỗng dưng dốc dựng hẳn xuống, rồi từ trong bửa ra một thông đạo hiểm trở tựa hồ bị lưỡi tầm sét xẻ đôi vậy. Thông đạo dựng đứng xuyên sâu xuống lòng đất, độ sâu của nó chừng hai ngàn mét, đó là con đường duy nhất dẫn đến Hắc Môn; sự đè nén lạnh lẽo thô cứng của hai vách núi cheo leo khiến người ta cảm thấy khó thở.



Nơi tận cùng thông đạo thâm u rất khoáng đạt rộng mở; trên vách đá không biết cao bao nhiêu kia, gắn ba cánh cửa dày nặng hình mái vòm hùng vĩ. Nó đứng sừng sững đơn độc trong im lìm và thê lương, phảng phất như thể thông đến một nơi vĩnh viễn không bao giờ đi tới đươc. Chỉnh thể kiến trúc không hề sử dụng một viên đá hay viên gạch nào, hoàn toàn dựa vào địa thế tự nhiên đục xuyên vách núi làm cửa.



Đội thám hiểm dừng chân, dùng đèn quặng soi sáng phía trước. Trong bóng tối mênh mang vô bờ bến, đứng bên cánh cửa, ngắm nhìn công trình kiến trúc hùng vĩ trên vách cát đá màu đỏ, ai nấy đều cảm thấy mình nhỏ bé tựa hồ con ong cái kiến, tựa hồ một điểm chấm bé tí xíu trước tòa Hắc Môn, trong lòng bất giác nảy sinh cảm giác hoảng sợ thực sự.



Tư Mã Khôi thấy xung quanh không có động tĩnh gì khác thường, bèn chiếu chùm sáng vào phía trong cánh cửa. Đột nhiên anh phát hiện cách đó khoảng mười mấy bước có một người đang ngồi, và ánh đèn soi đúng gương mặt người ấy. Tim gan Tư Mã Khôi đột nhiên lạnh buốt như đóng băng, bởi vì anh đã nhìn thấy một người đáng ra đã chết từ nhiều năm trước, con ma đã đầu quân vào thành Hàm Oan, điện Diêm La, thì lẽ nào lại bị Diêm Vương trả lại ư?


Bình luận

Truyện đang đọc