BỆ HẠ, NHẬN MỆNH ĐI!

Lúc đại quân của Tuyên đế bị vây hãm ở Nam Cương, tại kinh thành cũng không hề sóng yên biển lặng. Nguyên Đán vừa trôi qua, Tây Bắc liền truyền đến tin dữ ―  Thổ Phiên đông tiến, Mân Châu thất thủ. Trừ bỏ ngoại xâm, còn có một mật tấu mưu phản được thám tử ngày đêm khoái mã mang về kinh thành. Việc Tây Bắc Thổ Phiên xuất binh được đưa tới Trung Thư tỉnh, vậy nên cả triều đều biết. Nhưng tin tức mưu phản lại trực tiếp dâng vào cung, sau đó bị người đang thay Tuyên đế trông coi triều chính là Chu Huyên giữ lại.

Lúc nhận được tin tức, Chu Huyên không lập tức triệu tập đại thần, mà trước tiên đem hai người xưa nay luôn ở chung không hòa hợp với mình ― Thuần Vu Gia cùng Phượng Huyền triệu tới Khôn Ninh Cung, ném phong mật tấu kia xuống trước mặt hai người. Thuần Vu Gia cầm lên nhìn lướt qua, sắc mặt liền thay đổi, lẩm bẩm nói: “Uyển Lăng Vương…… mưu phản?”

Phượng Huyền cũng theo đó mà trầm mặt, tiến lên cùng xem. Mật tấu kia chỉ thuật lại vài câu cụ thể, Uyển Lăng Vương tư thông cùng thái thú TS, cướp quân lương nam chinh, lệnh cho quân sĩ trấn thủ TS lấp kín Dương Sơn Quan, muốn cùng Nam Cương hợp mưu giết hại Tuyên đế.

Phượng Huyền đem mật tấu “Bang” một tiếng đập lên bàn, thân mình dựng thẳng, trên người tràn ra một cỗ sát khí sắc bén, chậm rãi nói: “Kinh thành đành nhờ hoàng hậu và Thuần Vu đại nhân coi chừng, ta phải dẫn một đội tướng sĩ nam hạ bình định phản tặc.”

Thuần Vu Gia đè lại tay Phượng Huyền, mặt đầy thần sắc trầm trọng: “Phượng lang chậm đã. Uyển Lăng Vương mưu đồ đã một thời gian, tất có phòng bị, ngươi chỉ mang một đội binh đi, làm sao có thể cứu giá? Thổ Phiên lại đang nhân cơ hội này đông tiến, kinh sư nếu xảy ra chuyện gì ngoài ý muốn, tương lai ba người chúng ta làm sao đối mặt với bệ hạ?”

Thuần Vu Gia quay đầu hướng về Chu Huyên chắp tay hành đại lễ: “Hoàng thái tôn dù sao cũng là cháu ruột của Uyển Lăng Vương, việc này sớm muộn cũng sẽ liên lụy đến nó. Tin tức mưu phản chưa chắc có thể giữ mãi mà không truyền ra ngoài, theo ngu kiến của ta, không bằng trước tiên chặt đứt đường lui tới giữa thái tôn và ngoại thần, răn dạy cung nhân, chớ để thái tôn biết việc này. Nếu tương lai tình thế thật sự chuyển biến đến mức xấu nhất…… vậy thì phải thỉnh hoàng hậu quyết đoán.”

Chu Huyên hơi nghiêng người, tránh đi cái lễ bái của Thuần Vu Gia, thâm trầm mà nhíu mày đáp: “Hoàng thái tôn đã được nhập danh tự trong phả hệ hoàng tộc, không còn là tôn tử của Uyển Lăng Vương, chuyện áp chế hay lật đổ nó không quan trọng, nhưng nếu hành sự tuyệt tình quá mức, thử hỏi bệ hạ có chịu hay không. Việc bình loạn đương nhiên phải giao cho tiểu Phượng lang quân, nhưng ta cũng không thể lưu lại trong cung. Ta muốn đi Tây Bắc điều binh ngăn chặn Thổ Phiên, kinh thành đành phải phó thác lại cho Thuần Vu đại nhân!”

Thuần Vu Gia sửng sốt: “Đại tướng quân…… hoàng hậu muốn điều binh, vậy phải nói thế nào……”

Chu Huyên lập tức ngắt lời: “Ta tự sẽ có cách, ngươi cứ việc yên tâm. Dù sao ta cũng là hoàng hậu, ai dám đến hỏi trước mặt ta.”

Thuần Vu Gia than nhẹ một tiếng: “Bệ hạ nam chinh đã hơn một tháng, Uyển Lăng Vương ngay vào lúc này mưu phản, Thổ Phiên cũng bỗng dưng gây khó dễ. Hai việc này tới quá trùng hợp, quả thực giống như sau lưng thông đồng với nhau. Nếu hoàng hậu rời khỏi kinh thành, nơi nào đó bỗng nhiên có biến, thì còn ai đứng ra giải quyết bọn họ? Thỉnh hoàng hậu tọa trấn kinh sư, Chu lão tướng quân cùng Uy Vũ tướng quân hiện tại vẫn nhàn rỗi ở trong phủ, có thể phái bọn họ ra trận……”

Chu Huyên kiên quyết lắc đầu: “Gia phụ cùng A Hằng tuy rằng có thể cầm binh, nhưng một người tuổi già, một người tuổi trẻ tùy hứng, trận chiến này gian nan hết sức, vẫn nên để ta đi Tây Bắc tìm Dương Thanh mượn binh là an toàn nhất. Ta tự mình về nhà nói một chuyến, để phụ thân ta cùng mấy vị đường huynh đường đệ giúp ngươi thủ hộ kinh thành. Ta sẽ tận lực trở về sớm một chút, trong lúc đó nếu thực sự có biến, ngươi có thể bảo hộ thái tôn tạm thời rời kinh.”

Thuần Vu Gia nghiêm mặt đáp: “Hoàng hậu yên tâm, kinh thành ta nhất định sẽ giữ được cho đến khi ngươi trở về, hoàng thái tôn ta cũng có thể bình an mà giao lại trong tay bệ hạ. Nhưng tiểu Phượng học sĩ một mình mang binh bình loạn sẽ phải vất vả ― Uyển Lăng Vương mưu phản chuyến này không biết đã bố trí bao lâu, nói không chừng sau lưng còn cấu kết với Nam Cương vương, đến lúc đó trong ngoài đan xen, tiểu Phượng học sĩ làm sao đối phó?”

Phượng Huyền thần sắc bất động, đạm nhiên đáp: “Uyển Lăng Vương nếu thực sự có khả năng mưu phản, cũng không cần chờ đến ngày hôm nay. Hắn bất quá ỷ vào tôn tử làm hoàng thái tôn, mới có cái ý nghĩ này. Ta cũng không cần cùng hắn chính diện giao chiến, chỉ cần ra vẻ đặc sứ, giả truyền ý chỉ, lúc gặp mặt lập tức tìm cơ hội giết hắn là đủ.”

Kế này thật sự quá nguy hiểm, Chu Huyên cùng Thuần Vu Gia đều khuyên y suy nghĩ cho kĩ. Nhưng Phượng Huyền tính tình cố chấp, chỉ hỏi bọn họ: “Trong nước hiện tại còn nơi nào có thể điều quân? Lại nói Uyển Lăng Vương kia vẫn chưa dựng cờ tạo phản, nếu gióng trống khua chiêng bình loạn, hắn sẽ dùng ngôn từ xảo biện, nói chúng ta bức hắn phản. Cho nên cần phải một đao giết chết hắn ― ta là đương triều Hiền phi, Uyển Lăng Vương vừa chết, sẽ không ai dám tới giáp mặt giết ta.”

Ba người thương nghị xong, Phượng Huyền liền thu thập hành trang, cầm thánh chỉ do Chu Huyên tự viết và đóng dấu thẳng tiến đại doanh ở vùng phụ cận điều binh. Thuần Vu Gia thì lập tức cho ngừng công khóa của hoàng thái tôn, đem nó đưa tới trong điện của mình dưỡng dục. Chu Huyên sau khi đem triều vụ giao lại cho Thuần Vu Gia, liền triệu tập cận thần đến đại điện nghị sự, cách bình phong nói ra việc Uyển Lăng Vương muốn ám hại Tuyên đế, Phượng Huyền phải nam hạ bình loạn, chính mình thì phải tới Tây Bắc điều binh chống lại Thổ Phiên, đem tất cả quyền lực trong tay đều giao phó lại cho Thuần Vu Gia.

Hà thừa tưởng gấp đến độ một phen nắm lấy râu mình: “Tin tức này xác thật? Hoàng thái tôn thì sao? Phượng…… Hiền phi chính là văn thần, há có thể bình được phản loạn! Còn về Thổ Phiên, trong triều đã có lão tướng, sao có thể để hoàng hậu……”

Chu Huyên bỗng nhiên đứng lên, từ sau bình phong bước ra. Trên người y đã thay đổi nhung trang, chỉ là vẫn chưa mặc chiến giáp, vừa đi ra liền uy phong lẫm liệt. Cả triều thần tử có ai không nhận biết y, bình thường lui tới nghị sự nghe thấy thanh âm tương tự đã có chút kỳ quái, hôm nay tận mắt nhìn thấy người càng nói không nên lời, chỉ biết trơ mắt mà nhìn y.

Chu Huyên khí định thần nhàn đi đến giữa đại điện, mỉm cười hướng về phía mọi người: “Bổn cung hôm nay liền đi Tây Bắc điều binh, sự vụ trong triều, mong rằng các vị sẽ hết lòng phụ tá Thục phi, chớ để trong kinh sinh loạn.”

Thẳng đến lúc Chu Huyên sải bước ra khỏi điện, trong đầu mọi người bị sóng đánh thật sâu nãy giờ mới tỉnh táo trở lại, sôi nổi hỏi Thuần Vu Gia chuyện này là như thế nào. Thuần Vu Gia tay cầm đại ấn, nghiêm nghị đáp: “Việc trong triều, là bệ hạ phó thác cho hoàng hậu, hoàng hậu lại phó thác cho ta, thỉnh các vị đại thần tẫn hết trách nhiệm mà phụ trợ ta, thay bệ hạ bảo vệ tốt kinh thành. Còn về hậu cung, không phải là nơi thần tử có thể hỏi thăm.”

Thuần Vu Gia sấm rền gió cuốn mà giải quyết mọi việc, an bài giới nghiêm kinh thành, lại phái người đến TS và vùng đất Uyển Lăng tìm hiểu tin tức, nhưng vì danh dự của hoàng thái tôn và việc hành thích của Phượng Huyền, nên vẫn chưa chính thức phát ra công báo, chiếu cáo thiên hạ việc Uyển Lăng Vương mưu phản.

Thuần Vu Gia ở kinh thành trù tính hết sức, Tuyên đế ở Nam Cương cũng tốn không ít tâm tư. Từ khi biết phía sau không còn đường lui, đại quân càng tiến về phía trước nhanh chóng hơn. Nhưng Nam Cương thời tiết nóng bức, càng đi về phía nam càng cảm thấy nóng ẩm khó chịu, thời tiết có khi nóng đến nỗi giống như đầu hạ, ngay cả quần áo mùa xuân cũng không đỡ nổi khí hậu nơi đây, giáp trụ trên thân càng khiến cho đầy người đều là mồ hôi, nước trên trán tựa như dòng thác chảy xuống không ngừng.

Cũng may đội quân tiên phong của Tạ Nhân đã hợp cùng hai đội kỵ binh dẹp xong thành Tứ Hội, đại quân cuối cùng cũng có chỗ nghỉ chân, không cần tại dã ngoại chịu đựng thiêu đốt. Sau khi đi vào thành, Ân Chính liền lệnh cho binh sĩ nghỉ ngơi chỉnh đốn tại chỗ, càn quét thuốc hạ nhiệt từ khắp nơi về nấu uống. Quân sĩ bên dưới đều cho rằng đô thành Nam Cương gần ngay trước mắt, lại có thể ở trong thành nghỉ ngơi chỉnh đốn mấy ngày, tự nhiên đều hân hoan nhảy nhót. Lại không biết từ Tuyên đế cho đến các tướng lĩnh có đủ cấp bậc nghị sự đều vì chuyện phía sau không còn đường lui mà u sầu đầy cõi lòng, ngay cả ngủ cũng không thể yên tâm.

Tạ Nhân vì để công phá thành Tứ Hội đã phải khổ chiến hơn mười ngày, còn chưa kịp nghỉ ngơi đầy đủ đã nghe nói việc Phó Tương bị bắt và quận TS bị chiếm đóng.

Lúc trước khi y còn ở trong cung, chính Phó Tương là người đã giam lỏng y, ngăn cách y cùng Tuyên đế, bởi vậy y đối với Phó Tương cũng không có ấn tượng tốt đẹp gì, đối với chuyện Phó Tương bị địch thủ bắt giữ cũng không đau lòng giống người khác, mà là hỏi thẳng: “Trước mắt Đại Hạ bên ngoài không có cường địch, bên trong cũng không loạn chính, bất quá là một Nam Cương nho nhỏ, quốc nội sao có kẻ dám tác loạn? Có thể nào là dư nghiệt lúc trước cùng Chu Huyên mưu phản hay không……”

Ân Chính và chúng tướng quân nghe được lời này, e ngại ở trước mặt Tuyên đế không thể thay Chu Huyên nói chuyện, chỉ đành trợn mắt tức giận nhìn Tạ Nhân. Tạ Nhân làm như không thấy, không chút để ý mà tiếp tục phân tích thân phận phản tặc. Không khí trong trướng bỗng trở nên quỷ dị, Tuyên đế thật sự nhìn không được, khẽ lắc đầu, ngăn cản lời nói của Tạ Nhân: “A…… chuyện của Chu Huyên không cần nhắc lại, trước mắt hậu phương vẫn không có tin tức truyền đến, nói lên rằng những phản tặc kia vẫn chưa đuổi đến cảnh nội Nam Cương, đại quân của chúng ta tuy chỉ có một mình, nhưng tạm thời không sợ bị người vây đánh từ phía sau. Lão thần trong triều cùng ba vị hậu phi đều là người có thể tin cậy, phản tặc sẽ không thể làm gì được, chúng tướng chỉ cần suy xét trận chiến trước mắt phải đánh như thế nào là tốt rồi.”

Có Tuyên đế ở giữa điều đình, thái độ hai bên mới hòa hoãn trở lại. Tạ Nhân ngậm miệng không đề cập tới Chu Huyên, chỉ nói: “Lương thực trong quân hiện tại chỉ đủ dùng hơn một tháng, công một thành đã không dễ, huống chi đô thành của một quốc gia được phòng bị chặt chẽ, trong một tháng chưa chắc có thể đánh hạ, cần phải có biện pháp trù bị lương thảo mới ổn.”

Ân Chính yên lặng nuốt bất bình ủy khuất xuống đáy lòng, nói: “Ta là chủ soái, việc trù lương ta tự nhiên sẽ nghĩ cách. Hiện giờ đô thành Nam Cương đã gần trong gang tấc, Tạ tướng quân trước tiên cứ dẫn người xuôi dòng, vì đại quân làm tiên phong đi.”

Tạ Nhân chắp tay đáp: “Đây là bổn phận của ta, tuyệt đối sẽ không khiến bệ hạ cùng Ân tướng quân thất vọng.”

Tiền quân vừa trải qua hơn mười ngày chiến đấu công thành, cần phải có thời gian nghỉ ngơi chỉnh đốn, Tuyên đế tuy nóng lòng công thành, nhưng cũng không thể để binh sĩ kiệt sức, liền lệnh cho tiền quân lưu lại nghỉ ngơi mấy ngày. Tạ Nhân sau khi đi một vòng kiểm tra binh lính bị thương, liền trực tiếp trở về hành cung của Tuyên đế. Trong phòng so với bên ngoài còn muốn oi bức hơn, Tuyên đế đang dùng khăn lạnh lau mồ hôi trên đầu, cũng không mang phát quan, quần áo mặc không quá chỉnh tề, thấy Tạ Nhân tiến vào liền vội vàng hướng phía sau bình phong tránh đi.

Tạ Nhân bước tới giữ chặt Tuyên đế, tự nhiên cười nói: “Ta cũng không phải là những lão nhân đó, bệ hạ không cần bày ra tư thế sẵn sàng nghênh địch như vậy, chỉ cần thoải mái mà nhìn ta là được. Hồi lâu không gặp, tinh thần bệ hạ tựa hồ không tốt lắm, mấy ngày nay bôn ba đến mệt mỏi sao?”

Tuyên đế theo y đi ra ngoài, đến bên cạnh bàn ngồi xuống, nhìn y thở dài: “Quận TS có phản tặc tác loạn, đã chặt đứt đường lui của đại quân, trẫm há có thể không lo lắng?”

Tạ Nhân ngồi vào trước mặt Tuyên đế, vươn tay khẽ vuốt nếp nhăn giữa đôi lông mày của hắn, mỉm cười khuyên nhủ: “Trong triều đều là hiền thần, một trận loạn này có thể loạn bao lâu. Bệ hạ đã có thể an ủi thần tử, vậy cũng nên khuyên nhủ chính mình. Hai lộ đại quân của Từ tướng quân cùng Khê tướng quân sẽ nhanh chóng tiến đến Phiên Ngu, ta nghỉ ngơi chỉnh đốn mấy ngày liền dẫn người xuôi dòng xuống phía nam. Qua hết sông là đến bình nguyên, đại quân một đường giết tới, ép buộc Nam Cương vương tự tay chịu trói, ra khỏi thành xin hàng.”

Mắt trái Tuyên đế không ngừng giật lên, một tay xoa xoa, thấp giọng thở dài: “Hy vọng được như thế, chỉ là mí mắt trẫm hôm nay không ngừng co giật, không biết điềm báo dữ hay lành.”

Tạ Nhân cúi người qua nhìn kỹ, mí mắt Tuyên đế quả nhiên giật nhẹ liên tục. Y cũng không quá tin chuyện quỷ thần, nghĩ sơ qua liền đáp: “Ta nghe nói có một loại biện pháp trị mí mắt giật, bệ hạ nếu không chê, để ta thử trị một chút.” Nói xong liền đem môi áp lên, dùng đầu lưỡi liếm mút vùng da thịt đang giật liên hồi.

Tuyên đế không kịp phòng bị, bị y làm cho sợ tới mức thân mình thụt lùi về phía sau. Tạ Nhân liền giơ tay ấn giữ lưng hắn, đem đôi môi đè ép tới, đầu lưỡi dạo quanh mí mắt hắn một vòng, lại dần dần dời xuống phía dưới, dừng ở trên chóp mũi khẽ cắn một ngụm. Thanh âm Tuyên đế hơi phát run, một tay chống ở trước ngực Tạ Nhân, thấp giọng kêu lên: “A Nhân, ngươi đi nghỉ ngơi trước đi, không lâu sau còn phải xuất binh……”

Tạ Nhân cầm tay Tuyên đế, hàm răng rốt cuộc buông ra cái mũi cao thẳng của hắn: “Qua mấy ngày nữa mới xuất binh, vẫn còn thời gian để nghỉ ngơi.”

Tuyên đế quay mặt đi, lắc đầu nói: “Hiện giờ tình thế không tốt……” Đôi môi Tạ Nhân bỗng nhiên đổ xuống, đem tất cả lời nói mang theo phiền muộn của hắn đều trút trở về. Đôi môi kia ở giữa môi hắn ngấu nghiến ma sát thật lâu, lại không hề tiến thêm một bước, khiến Tuyên đế cảm thấy hơi có chút nửa vời. Hắn đang muốn đẩy ra Tạ Nhân, thì cái tay sau lưng bỗng nhiên di chuyển xuống phía dưới, dừng lại trên bờ mông của hắn, năm ngón tay dùng sức xoa nắn.

Tuyên đế cả kinh, cơ hồ muốn kêu lên. Vừa tính mở miệng, một đầu lưỡi trơn trượt nóng bỏng linh hoạt liền xông thẳng vào trong miệng. Tuyên đế theo phản xạ tính dùng đầu lưỡi đẩy ra, nhưng động tác này lại giống như phản ứng giao hòa cùng Tạ Nhân, khiến cả hai dây dưa càng thêm chặt chẽ. Hoa trì ngọc dịch dưới đầu lưỡi tuôn rơi xuống khóe miệng, thẳng đến khi tách ra liền kéo thành một sợi chỉ bạc nối liền giữa môi hai người.

Tuyên đế dồn dập thở hổn hển, mắt hé mở hướng về Tạ Nhân, trong mắt như có chút tức giận, lại bị sắc hồng ửng trên mặt làm cho lực uy hiếp thành không. Tạ Nhân liếm liếm đôi môi vẫn chưa hết hồng nhuận ánh nước, mỉm cười hỏi: “Bệ hạ còn cảm thấy mí mắt giật không? Nếu mới vừa rồi trị không đủ, ta lại đến một lần nữa.”

Tuyên đế nâng tay trái đến giữa không trung, không biết là nên che lại mí mắt hay là che lại đôi môi, cắn chặt răng làm bộ như không có việc gì đáp: “Nhờ ý tốt của Tạ khanh, mí mắt trẫm đã không còn giật nữa.” Tay Tạ Nhân vẫn còn đặt trên mông Tuyên đế chậm rãi vuốt ve, tay phải Tuyên đế lập tức đè lại mấy ngón tay của y, hít một hơi thật sâu, tận lực bình tĩnh mà nói: “Tạ khanh có thể lấy tay ra được rồi.”

Bình luận

Truyện đang đọc

Báo lỗi