CÁC ANH HÙNG CỦA ĐỈNH OLYMPUS TẬP 3: DẤU HIỆU ATHENA

ANNABETH đã MẤT LUÔN KHÁI NIỆM VỀ THỜI GIAN.

cô có thể cảm thấy bánh mình ăn trước đó đang bắt đầu chữa lành chân mình, nhưng nó vẫn tệ tới nỗi cơn đau đập rộn lên đến tận cổ. dọc thheo tất cả các bức tường, những con nhện nhỏ đắm mình trong bóng tối như thể đang đợi lệnh bà chủ. Hàng ngàn con sột soạt sau các tấm thảm thêu, làm cho những khung cảnh được thêu dệt chuyển động như có gió.

Annabeth ngồi trên sàn nhà đổ nát và cố gắng duy trì sức lực. Lúc Arachne không để ý, cô cố gắng bắt lấy loại tín hiệu gì đó bằng máy tính xách tay của Daedalus để liên lạc với bạn mình, nhưng tất nhiên cô chả có lấy chút may mắn. Việc đấy khiến cô chả có gì mà làm ngoài việc vừa ngạc nhiên vừa kinh dị nhìn Arachne làm việc, tám chân mụ chuyển động với tốc độ thôi miên, dần dần tháo gỡ các sợi tơ quanh bức tượng.

Với trang phục bằng vàng và khuôn mặt ngà sáng của mình, bức Athena Parthenos trông còn kinh hơn cả Arachne. Nó lạnh lùng nhìn xuống như bảo, Dâng ta món ăn nhẹ ngon lành hay gì khác đi. Annabeth có thể tưởng tượng mình là một người Hy Lạp Cổ Đại, đi vào đền Parthenon và nhìn thấy vị nữ thần khổng lồ này cầm khiên, giáo và cả con mãng xà nữa, một tay không kia giữ Nike, tinh linh của sự thắng lợi có cánh. Thế là đủ làm bất cứ người phàm nào xoắn hết cả áo chiton[0] lên rồi.

Hơn thế nữa, bức tượng còn phát xạ. Khi Athena được tháo bọc, không khí quanh bà ấm hơn. Làn da ngà voi của bà tỏa sáng đầy sức sống. khắp căn phòng, những con nhện nhỏ hơn trở nên kích động và bắt đầu rút lui trở lại hành lang.

Annabeth đoán rằng mạng nhện của Arachne đã che lấp và làm yếu đi pháp thuật của bức tượng kiểu gì đó. Giờ được tự do rồi, bức Athena Parthenos tỏa sức mạnh ma thuật khắp căn phòng. Hàng thế kỷ những lời cầu nguyện của người phàm và lễ tế thiêu[1]đã tạo nên sức mạnh hiện diện trong nó. Nó được truyền sức mạnh của Athena.

Arachne có vẻ không chú ý. Mụ tiếp tục tự mình lẩm bẩm, đếm các thước tơ và tính số tơ dự án yêu cầu. Mỗi khi mụ do dự, Annabeth lại cất giọng khuyến khích và nhắc nhở rằng những tấm thảm của mụ sẽ đẹp biết bao trên đỉnh Olympus.

Bức tượng càng lúc càng sáng và nóng nên Annabeth có thể thấy được những chi tiết của ngôi đền – khối nề La Mã có lẽ một thời từng trắng bong, những khúc xương xỉn đen sót lại từ những nạn nhân và các bữa ăn trước kia của mụ nhện lủng lẳng treo trên mạng, những sợi cáp lớn dệt từ tơ nối trần phòng với sàn. Giờ Annabeth mới thấy những miếng gạch cẩm thạch dưới chân mình mỏng manh tới mức nào. Chúng được phủ bằng lớp mạng thật tốt, như kiểu lưới thép giữ các mảnh kiếng vỡ lại với nhau. Mỗi khi bức Athena Parthenos di chuyển dù chỉ tí xíu, vết nứt lan ra và mở rộng hơn trên sàn phòng. Ở nhiều chỗ, có những cái hố to bằng nắp cống. Annabeth gần như ước gì mọi thứ chìm trong bóng tối thêm lần nữa. Dù kế hoạch của cô có thành công và đánh bại được Arachne chăng nữa, cô không chắc làm sao mình có thể sống sót ra khỏi căn phòng này.

“Nhiều tơ quá,” Arachne lẩm bẩm. “Ta có thể làm được hai mươi tấm thảm–”

“Tiếp tục đi!” Annabeth gọi vọng lên. “Bà đang tiến hành một công việc tuyệt diệu đấy.”

Mụ nhện tiếp tục làm. Sau một hồi tưởng chừng như mãi mãi, một núi tơ lấp lánh được chất đống dưới chân tượng. Các bức tường của căn phòng vẫn bị bao bởi mạng nhện. Những sợi cáp giữ căn phòng không sụp vẫn chưa bị đụng đến. Nhưng bức Athena Parthenos đã tự do.

Làm ơn tỉnh dậy đi, Annabeth cầu xin bức tượng. Mẹ, giúp con với.

không có gì xảy ra, nhưng các vết nứt dường như lan rộng nhanh hơn trên sàn nhà. Theo như Arachne bảo, những ý nghĩ độc địa của lũ quái vật đã ăn mòn nơi nền móng ngôi đền hàng thế kỉ nay. Nếu đấy là sự thật, việc bức Athena Parthenos tự do thậm chí sẽ còn thu hút nhiều chú ý của tụi quái vật dưới đáy Tartarus hơn.

“Bản thiết kế đây,” Annabeth bảo. “Bà nên làm cho nhanh.”

cô nhấc màn hình máy tính cho Arachne xem, nhưng mụ nhện ngắt lời, “Ta nhớ rồi, nhóc. Ta có con mắt nghệ sĩ để nhớ rõ tới từng chi tiết.”

“Tất nhiên là thế. Nhưng ta phải nhanh vào.”

“Tại sao?”

“Ừm…để có thể giới thiệu tác phẩm của bà cho cả thế giới này được biết!”

“Hmm. Rất tốt.”

Arachne bắt đầu dệt. Đấy là một công việc chậm chạp, dệt sợi thành các dải vải dài. Căn phòng ầm rung. Những vết nứt dưới chân Annabeth toác rộng hơn.

Nếu Arachne có để ý thấy, mụ cũng chả quan tâm. Annabeth cân nhắc xem có nên cố đẩy mụ nhện vào một cái hố bằng cách nào đó được không, nhưng cô bác bỏ luôn ý nghĩ ấy. không có cái hố nào đủ lớn, hơn nữa, nếu sàn nhà sụp, Arachne có lẽ có thể treo người bằng tơ và thoát đi, trong khi Annabeth và bức tượng cổ xưa té nhào xuống Tartarus.

Dần dần, Arachne hoàn thành những dải tơ dài và bện chúng lại với nhau. Kỹ năng của mụ thật hoàn hảo. Annabeth không thể không ngạc nhiên. cô thấy thoáng nghi ngờ mẹ mình. Nhỡ Arachne là một thợ dệt giỏi hơn Athena thì sao?

Nhưng kỹ năng của Arachne không phải vấn đề. Mụ bị trừng phạt bởi thói kiêu ngạo và thô tục. không cần biết bạn tuyệt vời tới mức nào, nhưng không thể đi khắp nơi mà xúc phạm thánh thần được. Các vị thần trên Olympus chính là một lời nhắc nhở rằng luôn có người giỏi hơn bạn, nên đừng có mà ra vẻ ta đây. Dù thế…bị biến thành một con nhện quái dị bất tử có vẻ là một hình phạt quá nặng cho thói khoe khoang.

Arachne làm nhanh hơn, bện các sợi lại với nhau. Rất mau, kết cấu đã hoàn thiện. Dưới chân bức tượng nằm một lồng trụ bện từ dải tơ, đường kính năm bộ và dài mười bộ. Bề mặt nó lấp lánh như vỏ bào ngư, nhưng trông không có vẻ đẹp lắm đối với Annabeth. Chức năng của nó chỉ là: một cái bẫy. Nó chỉ đẹp khi có tác dụng mà thôi.

Arachne quay sang cô với nụ cười đói khát. “Xong! Giờ, phần thưởng của ta à! Chứng minh cho ta thấy nhà ngươi có thể thực hiện lời hứa đi chứ.”

Annabeth nghiên cứu cái bẫy. cô cau mày lượn quanh nó, kiểm tra mối dệt ở mọi góc độ. Rồi, cẩn thận với cái mắt cá đau, cô cúi xuống bằng tay và đầu gối rồi bò vô trong. Những đo đạc trong đầu cô đã xong. Nếu cô tính sai, kế hoạch của cô tiêu chắc. Nhưng cô trượt qua cái hầm bằng tơ mà không hề đụng vào hai bên. Mạng dệt thật nhớp nháp, nhưng không thế không xong. cô bò ra đầu kia và lắc đầu.

“Có một lỗi,” cô nói.

“Gì?!” Arachne thét lên. “không thể nào! Ta làm theo hướng dẫn của ngươi–”

“Bên trong ấy,” Annabeth bảo. “Bò vào mà xem lấy đi. Ngay chỗ giữa đó – một lỗi trên tấm dệt.”

Arachne sùi bọt mép. Annabeth sợ mình đã thúc ép hơi quá và mụ nhện sẽ chộp lấy mình. cô sẽ thành một bộ xương khác trên mạng nhện mất.

Thay vào đấy, Arachne dậm tám cái chân hờn dỗi. “Ta không mắc lỗi bao giờ.”

“Ôi, nhỏ thôi mà,” Annabeth nói. “Có lẽ bà sửa được. Nhưng tôi không muốn cho các thần thấy cái gì ngoài tác phẩm tuyệt nhất của bà. Coi nào, đi vào trong kiểm tra đi. Nếu bà sửa được, ta sẽ cho các vị thần trên Olumpus chiêm ngưỡng. Bà sẽ thành nghệ sĩ lừng danh nhất mọi thời đại. Có khi họ còn sa thải chín nữ thần Muse [2] và thuê bà giám sát mọi môn nghệ thuật. Nữ thần Arachne…phải, tôi sẽ chả lấy gì làm ngạc nhiên đâu.”

“Nữ thần…” hơi thở Arachne nông hơn. “Phải, phải. Ta sẽ chữa lại lỗi này.”

Mụ chui đầu vào cái hầm. “Nó đâu?”

“Ngay chính giữa,” Annabeth giục. “đi tiếp vô. Có thể hơi chật so với bà đấy.”

“Ta ổn!” mụ ngắt lời và lách vô trong.

Như Annabeth hy vọng, bụng của mụ nhện vừa lọt, nhưng chỉ vừa khít thôi. Khi mụ ních vào, các dải tơ bện dãn ra để chứa cho vừa. Arachne đã cố tới được chỗ ổ tơ của mụ.

“Ta chả thấy lỗi nào cả!” bà ta báo.

“thật hả?” Annabeth hỏi. “Ấy, kì thật. Ra ngoài đi, để tôi xem lại cái coi.”

Khoảnh khắc sự thật phơi bày. Arachne luồn lách, cố gắng quay lại. Căn hầm đan dệt co rút lại quanh thân mụ và giữ mụ thật chặt. Mụ cố lách tới trước, nhưng cái bẫy kẹt lại chỗ bụng mụ. Mụ cũng chẳng thể đi qua được phía ấy. Annabeth đã sợ rằng chân gai của mụ nhện có thể xuyên thủng lớp tơ, nhưng chân Arachne đã bị ép vô người mụ quá chặt nên mụ khó mà di chuyển chúng được.

“Gì – gì thế này?” mụ gọi. “Ta mắc kẹt rồi!”

“A,” Annabeth nói. “Tôi quên nói cho bà hay. Món đồ nghệ thuật này gọi là Khóa Tay Trung Quốc. Ít nhất cũng là một biến thể lớn hơn dựa trên ý tưởng đấy. Tôi gọi nó là Khóa Nhện Trung Quốc.”

“Phản bội!” Arachne quẫy đạp, lăn lộn và vặn vẹo, nhưng cái bẫy giữ chặt mụ.

“Đấy là vấn đề sinh tồn,” Annabeth chữa lại. “Đằng nào bà cũng sẽ giết tôi, dù tôi có giúp bà hay không, phải chứ?”

“Ừ, tất nhiên là thế! Mày là một đứa con của Athena.” Cái bẫy chìm vào yên lặng. “Ý ta là…không, tất nhiên là không rồi! Ta tôn trọng lời hứa của mình.”

“À-há.” Annabeth lùi lại khi cái lồng bện hình trụ bắt đầu quẫy đạp lần nữa. “Thường thì cái bẫy được làm bằng tre đan, nhưng tơ nhện thậm chí còn tốt hơn. Nó sẽ giữ thít bà lại và còn quá khỏe để có thể phá hỏng được – kể cả với bà.”

“Gàooooooo!” Arachne lăn lộn và quằn quại, nhưng Annabeth tránh xa khỏi lối đó. Dù có một mắt cá bị vỡ, cô vẫn có thể xoay sở tránh khỏi một cái khóa tay bằng tơ khổng lồ.

“Ta sẽ tiêu diệt ngươi!” Arachne hứa hẹn. “Ý ta là…không, ta sẽ đối với cô tử tế nếu cô thả ta ra.”

“Tôi sẽ giữ sức nếu là bà.” Annabeth hít sâu một hơi, thả lỏng lần đầu tiên sau nhiều giờ. “Tôi sẽ gọi bạn tôi đến.”

“cô-cô gọi cho bạn cô về tác phẩm nghệ thuật của ta sao?” Arachne hỏi han đầy hy vọng.

Annabeth nhìn lướt căn phòng. Phải có cách nào gửi một thông điệp Iris cho tàu Argo II chứ. cô còn thừa ít nước trong chai, nhưng làm thế nào tạo đủ ánh sáng và sương mù để thành cầu vồng trong cái động tối tăm nhường này?

Arachne bắt đầu lăn lộn lần nữa. “Ngươi đang gọi bạn tới để giết ta!” mụ rít lên. “Ta sẽkhông chết! không phải chết thế này!”

“Bình tĩnh nào,” Annabeth bảo. “Bọn tôi sẽ để bà sống. Bọn tôi chỉ cần bức tượng thôi.”

“Bức tượng?”

“Phải.” Annabeth cứ nên kệ nó đấy nhưng nỗi sợ trong cô biến thành tức tối và oán giận.

“Tác phẩm nghệ thuật mà tôi sẽ trưng bày nổi bật nhất trên Đỉnh Olympus sao? không phải của bà đâu. Bức Athena Parthenos thuộc về nơi đó – ngay chính giữa trung tâm khuôn viên của các vị thần.”

“không! không, thật ghê tởm!”

“Ôi, nó sẽ không xảy xa ngay đâu,” Annabeth nói. “Đầu tiên chúng tôi sẽ đưa bức tượng đến Hy Lạp. một lời tiên tri bảo bọn tôi rằng nó có sức mạnh đánh bại lũ khổng lồ. Sau đấy…ừ, bọn này không thể cứ thế trả nó lại đền Parthenon. Thế sẽ làm dấy lên nhiều nghi vấn. Nó sẽ an toàn hơn nếu ở trên đỉnh Olympus. Nó sẽ thống nhất những đứa con của Athena và mang lại hòaa bình giữa người La Mã với Hy Lạp. Cảm ơn đã giữ nó an toàn nhiều thế kỷ qua. Bà đã phụng sự Athena một việc tốt lắm đó.”

Arachne hét lên và quấy đập. một sợi tơ bắn ra từ ổ tơ của mụ quái và dính vào một tấm thảm trên bức tường phía xa. Arachne thót bụng lại và nhắm mắt xé bừa cái lồng dệt. Mụ tiếp tục lăn lộn, bắn tơ bừa bãi, kéo đổ lò lửa ma thuật và dỡ tung gạch khỏi sàn nhà. Các tấm thảm dệt bắt đầu cháy.

“Dừng lại!” Annabeth cố cà nhắc thoát khỏi đường bay của tơ nhện. “Bà sẽ đánh sập cái động và giết cả hai ta mất!”

“Còn hơn là thấy ngươi thắng!” Arachne gáo thét. “Các con ta! Giúp ta!”

Ôi, tuyệt thật. Annabeth đã hy vọng là vầng hào quang pháp thuật của bức tượng sẽ giữ lũ nhện con ở xa, nhưng Arachne tiếp tục thét lên, khẩn nài chúng giúp. Annabeth cân nhắc có nên giết mụ nhện để khiến mụ câm mồm đi không. Dùng dao của cô bây giờ thì dễ thôi. Nhưng cô luôn do dự khi giết bất kì con quái vật nào lúc nó bất lực, kể cả Arachne. Hơn nữa, nếu cô đâm xuyên qua lớp tơ, cái bẫy có thể bị bung ra. Có thể Arachne sẽ thoát được trước khi Annabeth kết liễu được mụ.

Tất cả những ý nghĩ này đến quá muộn. Lũ nhện bắt đầu lúc nhúc ùa vô trong phòng. Bức tượng Athena rực sáng hơn. Lũ nhện rõ là không muốn tới gần, nhưng chúng nhích dần tới trước như đang thu hết can đảm mà làm vậy. Mẹ chúng đáng thét gào kêu cứu. Cuối cùng chúng ào vào, áp đảo Annabeth.

“Arachne, dừng ngay!” cô la lên. “Tôi sẽ–”

Thế nào đó, Arachne xoay được người lại trong cái nhà tù của mụ, chĩa bụng mình tới chỗ phát ra tiếng của Annabeth. một sợi tơ phóng vào ngực cô như găng tay của một võ sĩ hạng nặng.

Annabeth ngã xuống, chân cô nhói lên đau đớn. cô điên dại chém vào dải tơ bằng dao găm khi Arachne kéo cô về phía ổ tơ phập phồng của mụ.

Annabeth xoay sở cắt được sợi tơ và bò ra xa, nhưng những con nhện con đang tiến gần quanh cô.

cô nhận ra rằng nỗ lực lớn nhất của mình là chưa đủ. cô sẽ không ra khỏi đây được. Con cái Arachne sẽ giết cô ngay dưới chân bức tượng của mẹ cô.

Percy, cô nghĩ, mình xin lỗi.

Khoảnh khắc ấy, căn phòng rên lên và trần hầm nổ tung trong một luồng lửa sáng chói.

[0] Chiton là loại áo cổ của Hy Lạp, thằng không được may vá mà là vuông vải quấn quanh người và dùng dây buộc lại. Có rất nhiều kiểu quấn cho loại áo này.

[1] Tế thiêu là hình thức thiêu vật tế để dâng lên quỷ thần

[2] Là các nữ thần của cảm hứng văn học, khoa học và nghệ thuật.

Họ được coi như nguồn kiến thức, được truyền miệng qua nhiều thế kỷ trong các nền văn hóa cổ xưa ở Thơ ca và thần thoại.

Theo triết gia Plato (427 TCN – 348 TCN), trong tác phẩm Ion, có cả thảy 9 vị Muse. Plato tuy sống trước Pausanias 5 thế-kỷ, nhưng truyền thuyết ông nhắc đến có sau thuyết của Pausanias, và truyền thuyết này được thông dụng nhất ngày nay.

Tên thường gọi

Nghĩa gốc

Biểu tượng lúc đầu

Sau chuyển biến thành

Calliope

Calliopê, “có giọng du dương”

tài ăn nói hay

thiên anh hùng ca (sử thi)

Clio

Kleio, “người ca tụng”

thiên anh hùng ca

sử học

Erato

Eratô, “người dể thương”

thơ trữ tình, thơ lãng mạn, thơ ngày cưới

nghệ thuật đệm nhạc và hoà âm

Euterpe

Euterpê, “người làm rất hài lòng”

nhạc khiêu vũ

âm nhạc

Melpomene

Melpomenê, “ca sĩ”

bi kịch diễn ca

bi kịch

Polyhymnia

Polymnia, “nhiều bài ca (hymn)”

bài ca tôn giáo, tang lễ

thuật hùng biện

Terpsichore

Terpsichorê, “người nữ vũ công khêu gợi”

khiêu vũ và hát bè

múa và khiêu vũ

Thalia

Thaleia, “nở rộ, dồi dào”

hài kịch cổ Hy Lạp

hài kịch

Urania

Ourania, “thiên nữ”

chiêm tinh học

thiên văn học

Calliope là chị cả và là trưởng nhóm của các nữ thần Muse. Các truyền thuyết cũng rất phong phú về lai lịch của họ: khi thì họ là con của thần Zeus và Mnemosyne, nữ thần của trí nhớ, khi thì họ là con của nữ thần Harmonia, con gái của thần Ares và nữ thần Aphrodite, khi thì họ là 7 chị em con của Pierus và gọi là chị em Pierides.

Các nữ thần Muse làm trọng tài cho cuộc thi tài giữa thần Apollo và Marsyas. Họ cũng góp nhặt những mảnh của thi hài của thần Orpheus để chôn cất.

Bình luận

Truyện đang đọc

Báo lỗi