CÒN TỰA ÂM THANH TRONG CƠN SAY NĂM ẤY


EDITOR: GOBLIN

Bầu trời giờ Mão vẫn chìm trong màu ám tối của màn đêm, từng ngọn đèn lồng được nhóm cung nhân thắp lên, khiến cấm cung một mảnh đèn đuốc sáng choang.
Các tốp thị vệ xếp thành hàng một nghiêm túc qua lại tuần tra, thỉnh thoảng có một hai cung nữ hoặc công công bị sai đi làm gì đó ngang qua, dù trông tất cả thật vội vàng nhưng không hề phát ra bất kì tiếng ồn nào.
Sở Tỷ vừa mở mắt, đập vào mắt là tấm màn màu vàng sáng, đầu óc hắn thoáng mộng mị vài giây mới phục hồi lại tinh thần vén chăn xuống giường, sau khi phát hiện trong tẩm điện không có ai lúc này mới nhẹ nhõm thở phào, tự mang giày rồi cẩn thận rời tẩm điện.
“Dậy rồi à?” Vừa bước ra cửa phòng liền thấy Thiệu Cảnh ngồi trước một chiếc bàn thấp, bên trên bày mấy đĩa điểm tâm cùng một bầu rượu được hâm nóng trong chiếc chung bằng sứ.
“Bệ hạ.” Sở Tỷ định hành lễ nhưng Thiệu Cảnh lại vẫy tay, ý bảo hắn ngồi xuống vị trí đối diện mình.
“Cái này...!” Sở Tỷ lưỡng lự.
Thiệu Cảnh nói, “Long sàng của trẫm ngươi cũng ngủ qua rồi, còn câu nệ cái gì nữa!”
Một câu này khiến mặt Sở Tỷ đỏ tận mang tai, nghe lời ngồi xuống cái ghế đối diện Thiệu Cảnh: “Thần tuân chỉ.”
Quân thần hai người ngồi đối mặt nhau, Thiệu Cảnh tỉ mỉ quan sát Sở Tỷ, còn Sở Tỷ lại chẳng dám ngước mắt liếc trộm lấy một lần.

Hồi lâu sau, Thiệu Cảnh thở dài: “Mấy năm qua vẫn khoẻ chứ?”
“Vâng, rất tốt.” Sở Tỷ cầm bình rượu, rót đầy cho Thiệu Cảnh trước, sau đó tới mình rồi đặt bình rượu về vị trí cũ.
“Du Chi...!” Thiệu Cảnh thoáng ngập ngừng, vòng vo một hồi mới nói: “Hôm nay trẫm, chỉ muốn ôn chuyện với ngươi, từ khi trẫm ngồi trên ngôi vị này, ngay cả một người nói chuyện cũng không có.”
Sở Tỷ nghe câu này trái tim lập tức mềm nhũn, tấm lưng luôn căng chặt thả lỏng, bấy giờ mới ngẩng đầu nhìn Thiệu Cảnh.
Dáng vẻ Thiệu Cảnh hầu như chẳng có gì khác trước, nhưng vẫn có vài điểm thay đổi nhỏ.


Tỷ như dung mạo thêm mấy phần ngoan lệ, khí chất càng ngày càng trầm ổn, mày kiếm mắt ưng, phát huy hoàn toàn khí thế của một bậc đế vương, không thể đánh đồng với năm đó nữa.
Hai người bắt đầu tán gẫu, lâu lắm rồi Sở Tỷ không hỏi đến thế sự, Thiệu Cảnh liền tóm tắt lại tình hình trong ngoài mấy năm nay một lần, Sở Tỷ nghiêm túc lắng nghe thỉnh thoảng hỏi đôi câu.
Nghe đến tình cảnh mấy vị cố nhân không khỏi có chút thổn thức, cảm giác cảnh còn người mất, chẳng mấy chốc thức ăn trên bàn cùng bình rượu nóng đã bị hai người giải quyết hơn phân nữa.
Ánh nến lấp loé trên kỷ trà thỉnh thoảng phát ra vài tiếng lốp đốp, ảm đạm chiếu sáng căn phòng.

Thiệu Cảnh mở chao đèn rồi đưa một cây kéo cho Sở Tỷ, Sở Tỷ hiểu ý vươn tay cắt bấc đèn cháy đen kia đi.
“Hà đương cộng tiễn tây song chúc*,..” Thiệu Cảnh mở miệng ngâm một câu.
“...Khước thoại Ba Sơn dạ vũ thì.” Sở Tỷ đáp.
Trong phút chốc thời gian như quay ngược về nhiều năm trước, hai người cũng ngồi đối diện nhau như thế này, chỉ khác là trước mặt Thiệu Cảnh khi đó là một chồng kinh luân, còn Sở Tỷ hắn thì đứng bên cạnh giúp người này cắt bỏ bấc đèn.
“Đáng tiếc mùa đông không có mưa đêm.” Thiệu Cảnh nâng chung rượu trêu ghẹo nói, “Trái lại có tuyết đêm.”
“...” Sở Tỷ cũng nâng ly uống cạn, nghe Thiệu Cảnh nói vậy hơi kinh ngạc hỏi: “Tuyết rơi rồi sao?”
Dứt lời đặt ly rượu xuống, đứng dậy đẩy cửa sổ ra.
Quả nhiên.

Tuyết tháng chạp đã rơi kín trời, lả tả bay như những chiếc lông ngỗng, nền đá cẩm thạch ngoài điện đã tích một lớp tuyết dày, dấu chân thị vệ tuần tra qua qua lại lại lưu trên đất, rất nhanh bị những bông tuyết mới che lấp.

Cây tùng thân thấp trong viện cũng bị phủ một lớp dày, nương ánh đèn mơ hồ trông thấy cả đất trời bị nhấn chìm trong một màu trắng muốt.
“Tuyết rơi là báo trước một năm được mùa...” Sở Tỷ bị cảnh tượng trước mắt sợ ngây người.
Hiếm khi nào kinh thành lại đổ một trận tuyết lớn nhường này, từ nhỏ Sở Tỷ đã sống và lớn lên tại Trung Nguyên rộng lớn, với khí hậu dễ chịu hợp lòng người, ngay cả thời điểm ở chỗ hoang vắng kia cũng chưa thấy cảnh tượng thế này bao giờ.

Kể từ năm gặp tai ương bị giam vào lao ngục, sức khoẻ giảm sút, Vương Nhị trông chừng hắn càng chặt, trái gió trở trời một chút là nhất quyết không cho hắn ra ngoài, nên lúc này Sở Tỷ mới như quên hết tất thảy, vươn tay muốn chạm lấy những bông tuyết kia, chỉ là mái hiên đã ngăn lại ước muốn đó, ngón tay chỉ có thể cảm nhận chút gió lạnh xẹt qua.
“Muốn nhìn không, ta ra ngoài xem một chút đi, Du Chi.” Thiệu Cảnh gọi Trương Thịnh Đức, lão nhanh nhẹn mang một chiếc áo choàng lông hồ màu đen vào, Thiệu Cảnh nhận lấy không mượn tay người khác đích thân khoác áo cho Sở Tỷ, sau đó còn cẩn thận cột nó lại.
“Bệ hạ, cứ để thần...” Sở Tỷ vừa luống cuống vừa xấu hổ ngăn cản Thiệu Cảnh.
Thiệu Cảnh như chẳng hề bận tâm, nói: “Du Chi, hôm nay thôi, ngươi đừng coi ta là hoàng đế được chứ.” Sở Tỷ chưa bao giờ kháng cự lại dáng vẻ cầu xin của Thiệu Cảnh, huống chi bây giờ y đã lên ngôi cửu ngũ nhưng lời nói và thái độ vẫn hệt như năm đó, lại nhớ tới lời y nói ban nãy không khỏi đau lòng nên cũng ngầm đồng ý hành động của Thiệu Cảnh.
Trong lúc nói chuyện nút thắt cũng được buộc xong, áo lót màu quả quýt có vẻ làm gương mặt Sở Tỷ tốt lên đôi chút.

Trương Thịnh Đức cũng tranh thủ phủ thêm áo khoác cho Thiệu Cảnh.
“Đi thôi.” Dứt lời, Thiệu Cảnh xoay người ra khỏi cửa điện, chân Sở Tỷ không dài bằng chỉ phải bước theo sau.
Ai ngờ ra đến bên ngoài, Sở Tỷ rốt cuộc dùng hai bước vượt lên trước Thiệu Cảnh, từng bước đạp lên tuyết, lòng không nén nổi niềm vui sướng.

Mới vừa rồi còn uống liền mấy chén, khí huyết cả người thông thuận cũng không cảm thấy lạnh như trước, tâm tư vui đùa nổi lên, ngồi xổm xuống vo một quả cầu tuyết.
“Hành Diệu —” Sở Tỷ nắm cầu tuyết trong tay, nhất thời quá mức vui vẻ mà gọi thẳng nhũ danh của Thiệu Cảnh.

Thiệu Cảnh trông mặt Sở Tỷ đỏ bừng còn khoa tay múa chân liền biết người nọ đã ngà ngà say, sợ y loạng choạng mất trọng tâm té ngã, định bước tới đỡ lấy thì bỗng nhiên một quả cầu tuyết bay tới, đập thẳng và mặt hắn.
Giây phút đó cung nhân trong trong ngoài ngoài đều đứng chết trân tại chỗ, ngay sau đó đồng loạt quỳ đầy đất.

Mắt thấy mọi việt không ổn, Trương Thịnh Đức ra lệnh người bên ngoài lui xuống, còn mình nhanh chóng chạy đến rút khăn tay lau mặt cho Thiệu Cảnh.
Sở Tỷ cũng bị doạ ngây người, men say trong người lui hơn phân nữa, nặng nề quỳ trên đất: “Hoàng thượng tha tội! Là thần vô lễ, mạo phạm bệ hạ, xin bệ hạ khai ân!”

Nhưng Thiệu Cảnh nhanh chóng kéo Sở Tỷ dậy: “Cũng không phạm lỗi gì sao ngươi cứ thích quỳ thế chứ?” Một bên mặc Trương Thịnh Đức lau sạch tuyết trên mặt một bên tiếp tục nói: “Trong thiên hạ này, cũng chỉ có Du Chi can đảm ném tuyết vào mặt thiên tử thôi.”
“Hoàng thượng...” Sở Tỷ lúng túng vô cùng, cúi thấp đầu.

Thiệu Cảnh thấy bộ dáng này của y lòng càng thêm ngứa ngáy khó nhịn, từ giây phút đầu tiên gặp lại người này thì những xung động kia đã không thể kiềm nén hơn nữa rồi.

Thiệu Cảnh đi tới trước mặt Sở Tỷ ôm chặt người vào lòng: “Du Chi...”
Sở Tỷ đẩy cách mấy cũng không thoát ra được, bèn nói: “Hoàng thượng, người...!người buông ra...”
“Du Chi, nếu ngươi thật sự ghét chuyện này thì cứ đẩy ta ra đi, ta sẽ không ép buộc ngươi.” Ngoài miệng thì bảo thế nhưng cánh tay Thiệu Cảnh lại ôm ghì lấy Sở Tỷ không buông.
Sở Tỷ vùi mình vào lòng ngực Thiệu Cảnh, hai tay do dự chẳng biết làm sao, căn bản luyến tiếc đẩy người này ra, trong mắt dần dần đông đầy nước mắt: “Hành Diệu...!“
Trãi qua lần chia ly ấy, Thiệu Cảnh bị những chuyện bê bối năm đó liên luỵ, bị tước mất vị trí Thái tử, bản thân hắn thì nhờ thiên ân đặc xá mới bảo toàn được tính mạng.
Hôm nay Thiệu Cảnh đã có hoàng tử của y, làm vua một nước, trở thành người đứng đầu thiên hạ.

Sở Tỷ cho rằng đoạn tình cảm hoang đường thuở thiếu thời kia đã sớm bị Thiệu Cảnh xoá khỏi trí nhớ, việc triệu hắn về chẳng qua là sợ người ngoài chỉ trích hoàng thượng khắt khe cựu thần mà thôi.
Trước khi hồi kinh Sở Tỷ cũng thầm tính trong lòng, bản thân cố tình mắc vài lỗi sai để Thiệu Cảnh có lý do xử lý hắn, tránh cho đôi bên đều khó xử.

Suy cho cùng làm quan trong triều, dù hoàng thượng không nhìn chằm chằm thì đám quan bên dưới cũng sẽ cắn chặt không tha, cái chức thái phó này tuy không có thực quyền gì nhưng tốt xấu cũng thuộc hàng nhất phẩm, đủ khiến bao kẻ rình rập như lang như hổ.
Nhưng khi nghe câu nói vừa rồi của Thiệu Cảnh, biết người này vẫn còn nhớ tình xưa nghĩa cũ, Sở Tỷ mới không kìm được rơi nước mắt.
Thiệu Cảnh cảm nhận người trong lòng đang khóc thút thít vội dỗ dành: “Du Chi, chúng ta vào trong đi, ở ngoài lâu cẩn thận cảm lạnh.” Nói rồi không chờ Sở Tỷ trả lời liền bế người vào phòng.
Trong vòng một ngày bị Thiệu Cảnh bế hai lần, Sở Tỷ thật sự cảm thấy bản thân chẳng còn mặt mũi gặp ai nữa.
May mắn Thiệu Cảnh suy nghĩ đến thân phận của Sở Tỷ, không để nhiều người vào hầu hạ, phần lớn đều do Trương Thịnh Đức phụ trách.

Từ khi thăng lên chức tổng quản thái giám, lâu lắm rồi Trương Thịnh Đức mới làm những chuyện nhỏ nhặt này.


Tuy hầu hạ chủ tử là trách nhiệm của nô tài, thế nhưng Trương Thịnh Đức cũng không phải nô tài của Sở Tỷ, thế mà phải chạy đôn chạy đáo tính trước lo sau cho hắn, trong đầu Sở Tỷ nghĩ có chút không ổn mà quên bẵng Thiệu Cảnh ngay trước mặt.
“Nghĩ gì mà nhập tâm vậy?” Thiệu Cảnh đặt người xuống, sai người hầu hạ Sở Tỷ cởi áo choàng cùng giày và nón.
“Nghĩ tới Trương công công...” Sở Tỷ vô thức đáp, song nói ra rồi mới biết gay go.
“Nghĩ hắn làm gì?” Thiệu Cảnh liếc Trương Thịnh Đức đang đứng ở một bên làm gã toát cả mồ hôi lạnh, thầm ai oán trong bụng: Sở đại nhân ơi, chúng ta nào thân đến thế, khi không ngài nghĩ ta làm gì! Một thái giám già như ta có gì hay mà ngài phải nhọc công nghĩ đến chứ, trời ạ!
Sở Tỷ vội giải thích: “Không không không, không liên quan gì tới Trương công công cả.

Chẳng qua ta nghĩ, lần này ta hồi triều khiến công công vất vả, bận trước bận sau thôi...”
Thiệu Cảnh hừ lạnh: “Nô tài không phải dùng để hầu hạ sao? Ngươi quan tâm hắn quá làm gì.”
“Hầu hạ hoàng thượng, hầu hạ Sở đại nhân là may mắn của chúng thần, nô tài không cảm thấy vất vả gì đâu ạ.” Trương Thịnh Đức tranh thủ quỳ xuống nói.
“Ngươi nghe chưa, Du Chi?” Thiệu Cảnh phất tay để Trương Thịnh Đức mang người lui xuống, “Đừng có suy nghĩ những thứ vô vị này nữa.”
Sở Tỷ thở dài nói: “Hành Diệu, ngày đó ta nói với ngươi thế nào? Nên đối xử tốt với hạ nhân, chớ coi thường bọn họ...” nói được một nửa, mới đột nhiên ý thức người trước mắt này đã không còn là Ngũ điện hạ năm nào cùng hắn đọc sách nữa, mà là hoàng thượng, vội vã đổi giọng, “Thần quá bất kính.”
“Du Chi, trẫm thích dáng vẻ nói cười như vậy của ngươi hơn.” Thiệu Cảnh thở dài một tiếng, “Nó khiến trẫm thấy bản thân thật sự đang sống, mà không phải là một cổ máy cứng ngắt.”
⊹⊱✿ HẾT CHƯƠNG 3 ✿⊰⊹
CHÚ THÍCH
Đây là hai câu thơ cuối trong bài “Dạ vũ ký Bắc” (tạm dịch “Gửi tiếng mưa đêm về phương Bắc”) được trích trong tập thơ “Lý Nghĩa Sơn thi tập” của nhà thơ Lý Thương Ẩn (812 – 858).

Năm đó Lý Thương Ẩn vì mưa thu nên phải nán lại Ba Sơn một thời gian, người vợ từ quê nhà gửi thư đến hỏi ông ngày trở về.

Tiếc là mưa thu liên miên, đường xá thì khó khăn không cách nào xác định thời gian cụ thể, nên ông viết bài thơ này để hồi đáp người vợ nơi phương Bắc, bày tỏ sự mong muốn được tức tốc quay về nhà, được cùng vợ ngồi bên song cửa sổ phía Tây cắt hoa nến của mình nhưng tiếc thay ông không thể..


Bình luận

Truyện đang đọc

Báo lỗi