Đỗ Hà cũng bất lực, không thể giúp đỡ Phòng Di Ái, thời cổ đại, chuyện
lấy chồng lấy vợ là do phụ mẫu quyết định. Chuyện này Lý Thế Dân đã đích thân hạ chỉ, phụ thân của Phòng Di Ái là Phòng Huyền Linh cũng đã đáp
ứng thì Đỗ Hà có thể làm gì?
Huống chi nói thế nào Thành Dương
công chúa vẫn tốt hơn Cao Dương công chúa rất nhiều, trong lịch sử nàng
tựa hồ cũng không lưu lại chuyện gì ác liệt, nhiều nhất cũng vì Đỗ Hà
đoản mệnh đứng sai vị trí trong lịch sử, trở thành tâm phúc của Lý Thừa
Càn, cuối cùng còn khuyên bảo Lý Thừa Càn ám sát Lý Thế Dân, kết quả bị
Lý Thế Dân chém đầu, Thành Dương công chúa cũng bởi vậy tái giá với
người khác, nàng là công chúa, nếu không tái giá, chẳng lẽ còn thủ tiết
hay sao?
Cho nên mới nói dù thế nào Thành Dương công chúa vẫn tốt hơn Cao Dương rất nhiều, nếu ra sức khước từ, Lý Thế Dân giận dữ, đổi
Thành Dương thành Cao Dương, Phòng Di Ái mới hoàn toàn bi kịch, đương
nhiên khả năng việc này không lớn, chỉ là suy nghĩ linh tinh mà thôi.
Thấy Đỗ Hà cũng bất lực, Phòng Di Ái cũng chỉ có thể ủ rũ, nhận mệnh mà đi.
Tựa hồ cả ngày, Phòng Di Ái đều không lộ ra bất cứ tinh thần gì, một mực nghĩ đến chuyện này.
Nhưng đến khi giải tán, hắn lại thay đổi bất ngờ.
Đỗ Hà khó hiểu nhìn hắn.
Phòng Di Ái nhếch miệng cười nói:
- Ta nghĩ thông suốt rồi, cuộc sống nên như vậy, nếu không né tránh được, vậy chỉ có thể hưởng thụ.
Đỗ Hà cảm thấy bất ngờ, không ngờ hắn lại nói ra những lời triết học như
vậy, nghe rất giống như một câu danh ngôn triết lý đời sau:
- Cuộc sống vốn đầy khổ đau, nước mắt, chi bằng cứ hưởng thụ thoải mái.
- Cho nên ta quyết định, trước khi thành thân, tranh thủ thời gian còn
lại đi hưởng thụ, đòi lại tất cả những gì thiếu thốn sau này.
Phòng Di Ái lập tức bại lộ bản tính.
Lúc mới đầu Đỗ Hà còn muốn giúp hắn hỏi thăm xem Thành Dương công chúa là
người như thế nào, nhưng thấy hắn đã có phương thức ứng đối, cũng lười
hỏi thăm, cứ để hắn tự sinh tự diệt.
Ngay khi hắn chuẩn bị quay về nhà, đột nhiên được triệu hoán của Lý Thế Dân.
Đỗ Hà đi tới Cam Lộ điện, thấy Lý Thế Dân cau mày, ngồi ngay ngắn ở phía
trên, nhìn dáng vẻ giống như có tâm sự nặng nề, tựa hồ vài ngày rồi ngủ
không ngon giấc.
- Đỗ Hà bái kiến nhạc phụ đại nhân!
Hắn tràn đầy hiếu kỳ tiến lên đã hành lễ, lẽ nào đã có bước phát triển đột phá trong chuyện dư nghiệt của Lý Kiến Thành?
Lý Thế Dân khoát tay áo nói:
- Có một việc ta muốn nghe ý kiến của ngươi.
Đỗ Hà nghiêm mặt nói:
- Nhạc phụ đại nhân cứ nói đừng ngại.
Lý Thế Dân trầm giọng nói:
- Gần đây con đường tơ lụa gần Cao Xương rất bất ổn, những người đi lại
trên trung đoạn con đường tơ lụa liên tục gặp nạn, thương khách các nơi
tổn thất thảm trọng, trực tiếp ảnh hưởng đến trao đổi buôn bán giữa Đại
Đường ta và các quốc gia Tây Phương, ngươi cảm thấy việc này nên xử lý
như thế nào?
- Cái này….
Đỗ Hà cũng không biết nhiều về
con đường tơ lụa, nhưng cũng biết một ít. Con đường tơ lụa bình thường
có thể chia làm ba đoạn, đông đoạn, trung đoạn và tây đoạn. Trong đó
đông đoạn từ Lạc Dương, Trường An đến Ngọc Môn Quan, Dương Quan, ở đây
thuộc về phạm vi quản hạt của Đường triều, trung đoạn từ Ngọc Môn Quan,
Dương Quan đến Tây Chí Thông Lĩnh, khu vực này là lãnh địa của các quốc
gia Tây Vực. Tây đoạn từ Tây Chí Thông Lĩnh trải qua Trung Á, Tây Á
thẳng đến Châu Âu, những nơi này thuộc về quản hạt của các quốc gia Toái Hiệp, Đam La Tư, A Tư Đặc Lạp Hãn.
Con đường tơ lụa nói trắng ra là kinh doanh khóa quốc của đời sau, kiếm được món lợi kếch sù, những
người có thể qua lại đều là những đại thương nhân. Đông đoạn, tây đoạn
tất nhiên là dễ nói, do Đại Đường cùng với những quốc gia tương đối hùng mạnh như Toái Hiệp, Đam La Tư, A Tư Đặc Lạp Hãn, Đại Thực, Ba Tư giữ
gìn, tựa hồ bảo vệ không việc gì, nhưng trung đoạn từ xưa đến nay đều là nơi có rất nhiều chuyện. Bởi vì khu vực này do tất cả các quốc gia Tây
Vực quản hạt, quản chế khó khăn nhất, hơn nữa mấy năm liên tục chinh
phạt lẫn nhau, người chiến bại lưu lạc làm mã tặc, chuyên môn ra tay với thương đội qua lại trên con đường tơ lụa này.
Nhiều nơi ở Trung
đoạn đều là nơi thương khách phải qua lại, chỉ cần mã tặc ôm cây đợi
thỏ, không lo không có thương khách đến tận cửa.
Nhưng những
chuyện tương tự không thường thấy ở Đại Đường, chỉ vì Lý Thế Dân là
Thiên Khả Hãn, có thể hiệu lệnh Dị tộc xung quanh tiến hành chinh phạt,
vừa có mã tặc xuất hiện, hắn sẽ lập tức vận dụng quyền lực của Thiên Khả Hãn, triệu tập binh mã của quốc gia phụ cận, triển khai vây giết đối
với mã tặc, bảo vệ an toàn con đường tơ lụa.
Mã tặc hung hãn,
cũng khó địch lại đồng lòng đối địch của các nước Tây Vực. Chính vì như
vậy, thương nhân có thể tự do qua lại hai nơi, xúc tiến trao đổi văn hóa đồng thời mang đến cho Đại Đường thuế thu thương nghiệp vô cùng phong
phú.
Cho nên Đại Đường cho tới nay cũng tương đối coi trọng quản chế Tây Vực, để tránh làm hỏng lộ tuyến kinh doanh hoàng kim này.
Hiện giờ Lý Thế Dân có tâm sự nặng nề như vậy, chắc chắn gần đây đã xảy ra
biến cố dị thường, con đường tơ lụa chịu tổn hại nghiêm trọng, trực tiếp ảnh hưởng đến kinh tế phồn vinh của Đại Đường.
Lý Thế Dân tìm mình thương nghị, có lẽ cũng vì trên triều đường không thương nghị ra cách nào có hiệu quả.
Hắn lắc đầu cười khổ, Lý Thế Dân cũng quá coi trọng mình rồi, văn võ trong
triều không thiếu những nhân vật lợi hại như Phòng Huyền Linh, Đỗ Như
Hối, Trưởng Tôn Vô Kỵ, Ngụy Chinh, Hầu Quân Tập, Lý Tích.
- Việc
này xảy ra bên ngoài, xác thực không tiện xử lý. Đại Đường ta không thể
xuất binh tiêu diệt, cũng không biết tình huống thực tế. Chuyện duy nhất có thể làm là dùng danh nghĩa Thiên Khả Hãn của nhạc phụ đại nhân hiệu lệnh các quốc gia Tây vực như Lâu Lan, Xa Sư, Cao Xương, Yên Giả, Quy
Tư, A Khắc Tô, đồng thời xuất lực vây quét mã tặc.
Suy nghĩ hồi
lâu, Đỗ Hà chỉ có thể nghĩ ra cách này, nhưng biện pháp này với tài trí
của Phòng Huyền Linh, Đỗ Như Hối, Trường Tôn Vô Kỵ, Ngụy Chinh há có thể không nghĩ ra.
Quả nhiên, Lý Thế Dân cũng không lộ ra vẻ bất ngờ, văn võ trong triều đã sớm đề xuất biện pháp này.
Đỗ Hà tiếp tục nói:
- Nhạc phụ đại nhân, tiểu tế có một câu không biết có nên nói hay không!
- Nói đi! Ở đây chỉ có ta và nhạc tế, không phải ngại!
Lý Thế Dân yên lặng lắng nghe.
Đỗ Hà nói:
- Tiểu tế cho rằng Đại Đường ta quá mức ỷ lại con đường tơ lụa này, đồng
thời khống chế Tây Vực quá yếu. Thiên Khả Hãn ngoài mặt có thể hiệu lệnh các tộc, nhưng dù sao chỉ là một danh xưng, không phải là Khả Hãn thật
sự của bọn hắn. Bọn hắn e ngại Đại Đường, có lẽ sẽ nghe theo hiệu lệnh
của nhạc phụ đại nhân, nhưng rốt cuộc là bằng mặt không bằng lòng, hay
là cái gì, không ai biết được, tiểu tế cảm thấy nên tăng cường khống chế Tây vực.
Sau khi ở Đường triều hơn một năm, Đỗ Hà cũng có hiểu
biết nhất định đối với một số quốc sách của Lý Thế Dân. Lý Thế Dân yêu
dân như con, hoàn toàn là sự thật. Bởi vì các loại thuế suất của Đường
triều rất thấp, giá cả vật phẩm cũng rất rẻ, tựa hồ không có nạn đói.
Thuế suất thấp, thu nhập quốc gia đương nhiên không cao, như muối bỏ
biển. Cho nên tài chính chủ yếu của Đường triều đều dựa vào con đường tơ lụa. Cũng bởi vì như thế, Đại Đường tương đối coi trọng Tây Vực, cũng
đặc biệt ỷ lại. Nếu con đường tơ lụa phát sinh dị thường, sẽ trực tiếp
ảnh hưởng đến kinh tế quốc gia.
Nếu trên con đường tơ lụa xuất
hiện trộm cướp, tất nhiên cũng sẽ ảnh hưởng đến cuộc sống yên bình của
vị Hoàng Đế Đại Đường Lý Thế Dân.
Ánh mắt Lý Thế Dân lấp lánh, những lời này của Đỗ Hà chẳng khác gì khuyên bảo hắn dùng binh với Tây Vực.
- Chuyện ở Tây Vực như một vũng nước đục, mạo muội tiến vào chưa hẳn là chuyện tốt.
Hắn không phải không nghĩ tới dùng binh với Tây Vực, chỉ là trong lòng còn có bận tâm.
Đỗ Hà hiểu rõ ý tứ của Lý Thế Dân, tình thế Tây Vực có thể dùng cách nói
“co một chút động toàn thân” để hình dung, nếu chỉ có hai tiểu quốc đụng độ nhau, các quốc gia Tây Vực đều sẽ không để ý, nhưng Đại Đường lại
bất đồng. Xét đến cùng, mấu chốt ở chỗ Đại Đường quá mức cường đại,
cường đại đến mức khiến người ta không dám ngưỡng mộ.
Chính vì
như vậy Đại Đường mới có thể uy hiếp tứ phương, cũng vì như vậy mọi
người đều e ngại Đại Đường, sợ hãi Đại Đường. Nếu Đại Đường lộ ra suy
nghĩ đánh chiếm Tây Vực. Mấy chục quốc gia Tây Vực nhất định sẽ cảm thấy bất an, dẫn đến bức bách bọn hắn liên hợp lại cùng nhau đối kháng Đại
Đường.
Luận thực lực của một nước, Đại Đường hoàn toàn không sợ,
nhưng toàn bộ Tây Vực liên hợp lại lại không thể coi thường, cùng lúc
đó, những quốc gia xung quanh như Nam Chiếu, Thổ Phiên chưa hẳn sẽ không thừa cơ hành động.
Cho nên nói thực lực vô cùng cường đại, có một số thời điểm cũng chưa hẳn là chuyện tốt.
Trong lòng Lý Thế Dân thật sự lo lắng, thực lực Đại Đường có thể chiến, nhưng không thể chiến tùy tiện, bằng không sẽ giống như Hitler trong chiến
tranh thế giới thứ hai, bị các quốc gia cùng vây công, Đại Đường cũng
khó có thể khôi phục hòa bình.
Dân chúng Đại Đường vừa mới trải
qua đại loạn cuối thời nhà Tùy, chính là cần thời gian nghỉ ngơi lấy lại sức, luân phiên phát động chiến tranh đối với Đại Đường, đối với dân
chúng mà nói đều là nguy hại trí mạng.
Đỗ Hà âm hiểm cười nói:
- Nhạc phụ đại nhân, chuyện này, ngài cũng quá mức chính trực. Hoa Hạ
chúng ta có một câu, muốn gán tội cho người khác sợ gì không có lý do.
Có một số việc, cho dù giả dối, nhưng chỉ cần có người tin, có thể trở
thành thật sự. Chỉ cần nhạc phụ đại nhân phái mật thám lẻn vào Tây Vực
rải lời đồn, nói mã tặc gần Cao Xương kỳ thật chính là quân đội Cao
Xương, là Cao Xương Vương Cúc Văn Thái biển thủ, cải trang mã tặc ăn
cướp thương khách, chỉ cần có người nói sẽ có người tin. Đến lúc đó nhạc phụ đại nhân có thể công khai chất vấn Cúc Văn Thái, lại kêu Cúc Văn
Thái giải thích hợp lý! Việc này là chúng ta bịa đặt lung tung, hắn căn
bản không giải thích được.
Ở trước mặt hắn chỉ có hai con đường,
một là đối mặt với thảo phạt chính nghĩa của Đại Đường, một mặt là toàn
lực tiêu diệt mã tặc, chứng minh trong sạch của mình. Với quốc lực của
một quốc gia như Cao Xương, không đến mức không đối phó được mã tặc. Cho nên bất luận lựa chọn con đường nào, an nguy của con đường tơ lụa sẽ
được hóa giải. Tiểu tế ngược lại hy vọng bọn chúng sẽ lựa chọn con đường phía trước, như vậy Đại Đường ta có thể công khai tiến binh Cao Xương,
thiết lập Đô Hộ Phủ ở Cao Xương, như vậy càng có lợi cho Đại Đường ta
khống chế Tây Vực!