KHÁNH HI KỶ SỰ


Đầu tháng Tám, hoàng đế nhận được tấu của Tất Long, trước khi bàn bạc với quần thần để trả lời thì gọi Thành Thân vương và Lưu Viễn tới bàn trước.
Lưu Viễn xem tấu của Tất Long xong thì gật đầu lia lịa, bảo: “Lương vương lo lắng rất đúng, chuyện tăng binh đã không thể chậm thêm nữa rồi.”
Hoàng đế đã đoán lão sẽ nói lời ấy, thờ ơ cười khẩy nói: “Trẫm lại không thấy vậy.

Lúc này người Hung Môn vùng Nhạn môn, Xuất Vân cũng chỉ có ba, bốn vạn.

Tất Long luôn miệng nói Thiền Vu chưa từng lộ mặt, triều đình tùy tiện tăng binh lên tây bắc sẽ chỉ hao tài tốn của.

Hai ngày trước bộ Hộ cũng nói quốc khố đang trống không đấy!”
“Khuất Xạ Thị hung tàn thiện chiến, nếu không đóng quân phòng bị, chỉ e sau này sẽ có sơ xuất.”
Hoàng đế nói: “Thái phó quá lo rồi.

Trong tay Lương vương có tám vạn binh mã, hiện tại ở tiền tuyến phần lớn là tướng sĩ người Hán, trấn thủ phương Bắc là lời các đời Lương vương bọn họ hứa với triều đình.

Anh ta còn có năm vạn lính Hồ thiện chiến không dùng đến, còn đòi triều đình xuất binh thay anh ta ư?”
“Vâng.”
“Nếu anh ta thiếu thốn lương bổng, triều đình có bao nhiêu sẽ cho anh ta bấy nhiêu, cực chẳng đã, triều đình sẽ trưng thu từ đất phiên.

Trước đây thái phó từng nói, phiên vương vượt quyền về thuế má ở các nơi khiến quốc khố trống rỗng.

Nay nạn nước ập đến, mượn một ít của họ chắc là được chứ.” Lưu Viễn nghĩ cuối cùng hoàng đế cũng tiếp nhận lời can gián thì không khỏi vui mừng khôn xiết, dập đầu “cộp cộp” nói: “Hoàng thượng thánh minh.”
Hoàng đế bảo: “Đây là chuyện lớn, thái phó hãy trở về viết tấu chương rồi dâng lên, sáng sớm mai vào chầu sẽ bàn cùng bộ Binh, bộ Hộ.

Lương vương đã ở tiền tuyến mấy tháng rồi, đã sắp vào thu, trẫm không đành lòng để công chúa Cảnh Giai ở mãi nơi xứ lạnh với anh ta.

Hãy bảo Tất Long về Lương châu điều binh, đại quân bên ngoài Nhạn môn thì giao cho Lưu Tư Hợi dưới trướng anh ta dẫn dắt, phong làm tướng quân Phiêu Kị chính nhị phẩm.

Giờ trẫm sẽ đi hỏi ý thái hậu, nếu thái hậu thấy thỏa đáng thì có thể nói chuyện trước mặt đám phiên vương.”
Thành Thân vương khẽ cười hai tiếng “ha ha”, đợi Lưu Viễn đi rồi mới nói: “Mấy năm trước mẫu hậu thưởng hết thuế má đất phong cho bốn vị thân vương, nay hoàng thượng muốn lấy lại, chỉ sợ bọn họ sẽ không đồng ý đâu.”
“Cởi chuông phải do người buộc chuông.” Hoàng đế nói, “Muốn bọn họ nôn tiền ra, chỉ có mẫu hậu nói mới xong.

Em cùng trẫm đi thỉnh an nào.”
“Vâng.” Thành Thân vương nói, “Thần ở bên đóng vai phụ cho hoàng thượng.”
“‘Vai phụ’ này rất có ích đấy!” Hoàng đế cười nói, “Em lại học cách ăn nói đưa đẩy từ ai đấy?”
Thành Thân vương cười đáp: “Hoàng thượng còn không rõ kẻ nào gần gũi với thần sao?”
Hoàng đế cảm thấy nụ cười của y có thứ gì đó bất thường, chỉ lo gảy lá trà nổi trên mặt, nghe Cát Tường bên ngoài cất giọng the thé nói: “Hoàng thượng khởi giá rồi.” Hắn ta lại uống hai hớp trà rồi mới bỏ chén trà xuống và đứng dậy.
Đi tới ngoài cung Từ Ninh, Khang Kiện đã được tin từ lâu nên vội vã khấu đầu ở trước ngự giá, nói: “Vạn tuế gia vạn phúc kim an.

Hoàng hậu nương nương và Nghị phi nương nương đang ở bên trong thỉnh an thái hậu, không biết Thành Thân vương muốn tới, bây giờ đang tránh ở bên trong ạ.”
Hoàng đế càng lo cho thai nhi, quay đầu nói với Cát Tường: “Chốc nữa bảo Nghị phi, sau này bớt đi lại, bớt ra ngoài cho dễ sinh.”
Lát sau đã có Hồng Tư Ngôn đi ra hành lễ cười nói: “Mời hoàng thượng mau vào bên trong, Thành Thân vương cũng đã lâu không đến rồi, thái hậu rất nhớ nhung đấy ạ.”
Thành Thân vương dập đầu theo hoàng đế.

Thái hậu vẫy vẫy tay với y, ôm vào trong lòng nói: “Nhìn gầy đi không ít, người trong phủ con làm việc thế nào đấy? Không dốc lòng gì cả.”
Thành Thân vương cười thưa: “Mẫu hậu chỉ thương con trai nên mới nói như vậy thôi, gần đây nhi thần còn béo hơn đấy.”
“Nói bậy!” Thái hậu cười trách một câu rồi sai người dọn chỗ và nói với hoàng đế, “Gần đây hoàng đế rất bận rộn, sao mới chiều đã rỗi rãi qua đây thế?”
Hoàng đế nói: “Bây giờ đang có chuyện chính xin ý chỉ của mẫu hậu ạ.”
Thành Thân vương nói: “n là hôm nay nhận được tấu của Lương vương Tất Long, chỗ anh ta đang muốn triều đình xuất binh thay mình đấy.”
“Hung Nô đã làm loạn ghê gớm như vậy cơ à? Mà giờ phải dùng tới binh lực của triều đình?”
“Nhi thần cũng thấy quá vội!” Hoàng đế nói, “Nên nhi thần định bác bỏ tấu của anh ta.”
Thái hậu cười bảo: “Hoàng đế muốn bác bỏ thì cũng đã bác bỏ rồi, còn chuyện gì cần tới hỏi ta nữa?”
Thành Thân vương nói: “Còn không phải là vì chuyện lương bổng hay sao? Tất Long đòi binh chúng ta không cho nhưng lương bổng vẫn phải phát chứ ạ, dù sao thì chống Khuất Xạ Thị là chuyện lớn của triều đình mà.”
“Bộ Hộ lại đang than nghèo à?” Thái hậu mỉm cười dần dần không đếm xỉa tới, vừa bảo Hồng Tư Ngôn lấy ra mấy quả nho lớn trong khay dâng lên để hoàng đế và Thành Thân vương ăn, vừa nói: “Hoàng đế tính thế nào?”
Hoàng đế thở dài nói: “Nhi thần cũng chẳng có cách nào, muốn xin ý chỉ của mẫu hậu ạ.”
Thành Thân vương nói ở bên thái hậu: “Mẫu hậu, hoàng thượng vì chuyện này mà ăn ngủ không yên.

Chỉ dựa vào thuế mà triều đình thu ở các nơi thì có thu thêm nữa cũng chỉ như muối bỏ biển.

Muốn bộ Hộ bỏ ra khoản chi lớn như vậy thì cũng làm khó bọn họ.”
Thái hậu nhíu mày nghĩ một hồi mới nói: “Đây không thể tính là việc khó gì cả.

Các thân vương, quận vương thoải mái ở đất phiên, cứ đòi họ một trăm tám mươi vạn lượng bạc đã chống đỡ trước, cũng chưa chắc tổn hại đến nguyên khí của họ.

Nhưng trong cung chúng ta cũng phải tiết kiệm chi tiêu, không thể để người bên ngoài nói những lời khó nghe được.”
“Vâng.” Hoàng đế không ngờ rằng thái hậu lại phá vỡ quy định nhanh như vậy, sau khi vui mừng lại thầm sinh ra chút sầu lo nhưng trên mặt thì vẫn cười nói, “Con chỉ sợ bọn họ sẽ oán giận thôi.”
“Oán giận cái gì? Cho bọn họ tất cả thu nhập từ thuế ở đất phiên là phần thưởng ngoại lệ của ta, nay đòi chút tiền ứng phó nhu cầu cấp thiết, ai dám oán giận?”
Hoàng đế gật đầu nói: “Hồng vương vốn là cậu, tất nhiên sẽ không nói gì.

Hai vương Đông Tây lại là thân vương mà mẫu hậu phong, có lời của mẫu hậu thì nhi thần yên tâm rồi.” Đoạn hắn ta quay đầu lại nói với Cát Tường, “Khanh truyền ý chỉ của trẫm, từ ngày hôm nay trở đi, ngoại trừ mấy nơi của thái hậu, thái phi và Nghị phi thì chi tiêu ở các cung các viện các nha môn trong cung đồng loạt cắt giảm, giám Ti lễ quản lý toàn bộ chuyện này.”
Cát Tường đáp thật nhanh, nói: “Tuân chỉ.”
“Thế là được rồi.” Thái hậu mỉm cười nói, “Cát Tường nhớ kỹ, cho dù phụng ý chỉ làm việc cũng phải để ý cái ổn thỏa chậm rãi, chớ nóng vội.

Nếu không thì sẽ ép nương nương các cung đều muốn tìm giám Ti lễ các ngươi gây phiền hà đấy.”
Lời của thái hậu có ám chỉ khác, Cát Tường cúi đầu, dằn lòng không nhìn sắc mặt hoàng đế, vội vàng nói: “Xin tuân theo ý chỉ của thái hậu.”
Thái hậu nom có vẻ mệt mỏi, hoàng đế và Thành Thân vương bèn đứng lên xin cáo lui.

Thái hậu mới vẫy tay nói với Hồng Tư Ngôn: “Cô tới đây.”
Hồng Tư Ngôn theo thái hậu vào bên trong điện, nhìn thái hậu đang cắn hàm răng trắng bóng cắn mạnh vào môi thì vội vàng đi lên trước nhẹ giọng nói: “Chủ nhân tức giận gì vậy? Bản thân chủ nhân cũng đã nói sớm muộn sẽ có một ngày như vậy rồi cơ mà.”
Giọng thái hậu cay nghiệt vô tình, chậm rãi nói: “Cô hãy hỏi rõ cho ta xem rốt cuộc là kẻ nào đề xuất ý kiến cho Tĩnh Nhân.”
“Vâng.”
“Bọn họ không có kẻ nào an phận thủ thường cho ta cả.

Tất Long muốn giữ tròn binh mã Lương châu; hoàng đế lại càng muốn mượn Hung Nô để tiêu hao thế lực của phiên vương.

Mỗi người họ đều làm những trò xiếc đùa với lửa, không ai nghĩ tới quân địch đã vây bốn mặt.

Cô mài mực cho ta đi, ta phải viết thư cho mấy phiên vương.”
Hồng Tư Ngôn thấy thái hậu cầm bút không ngừng suy xét thì nhẹ nhàng để thỏi mực ngang trên nghiên rồi nói: “Ngày sau họ xung đột vũ trang, như nước với lửa, chủ nhân muốn đứng ở bên nào thì cần phải sớm quyết định thôi.”
Thái hậu cười khẩy: “Hoàng đế là con trai ruột thịt của ta chứ không phải do ta lựa chọn.

Chỉ là…” Bà cúi đầu nhìn mình tên Hồng vương mà mình viết ở trên lụa trắng như tuyết thì buồn rầu một lát, mới nói, “Hồng vương là tay chân của ta, con người chứ có phải cây cỏ đâu, há có thể tự hại cánh tay mình.”
Hồng Tư Ngôn nói: “Nô tỳ nghe nói gần đây tai mắt của hoàng thượng rất nhạy bén, chủ nhân viết thư cũng phải cẩn thận.”
Thái hậu mỉm cười, đặt bút như bay, vừa vung tay đã xong bốn phong thư, rồi nói: “Chỉ cần coi như ý chỉ của ta kà được.

Để người của hoàng đế nhìn thấy cũng không sao, có điều phải đưa đến trước ý chỉ của hoàng đế để tránh sinh biến.”
Hồng Tư Ngôn dùng con dấu của thái hậu niêm phong thư lại rồi sai người đưa gấp đi.

Cưỡi ngựa đi gấp từ Ly đô tới Hồng châu mất năm ngày, lúc thư của thái hậu vào vương phủ ở Hồng châu thì bên triều đình mới bàn xong về việc trưng thu lương thức ở đất phiên, e rằng khi ý chỉ đến Hồng châu thì đã là chuyện của nửa tháng sau.

Hồng vương giao thư của thái hậu cho tham sĩ bên cạnh là Phạm Thụ An xem rồi cười nói: “Hoàng đế sốt ruột rồi, giờ đã muốn ra tay với chúng ta.”
Phạm Thụ An mười bảy tuổi đã đi theo Hồng vương, tới giờ đã hơn hai mươi lăm năm, mấy năm nay đã trở thành mưu sĩ chủ yếu của Hồng vương.

Người suy nghĩ quá nhiều thì khó tránh khỏi sẽ giảm phúc, chiến tướng sa trường sáng sủa cường tráng trước kia, bây giờ gầy guộc, đôi mắt buồn ngủ luôn lim dim, ngay cả người lòng dạ sắt đá như Hồng vương trông thấy ông ta cũng khó tránh khỏi sinh ra cảm giác thương tiếc.
“Theo thần thấy, hành động này của hoàng đế mang nhiều ý dò xét hơn.” Phạm Thụ An nói năng cũng chậm rãi, yếu ớt làm nghe người trăm mối cảm xúc ngổn ngang, “Kẻ địch mạnh ngay trước mắt, chắc rằng hắn ta không dám mạo hiểm lúc này đâu.”
Hồng vương nói: “Dù là vậy cũng không thể xem thường, anh thấy nên đối phó ra sao?”
“Theo như thư của thái hậu thì ý của hoàng đế hết sức kiên định, chỉ vài chục vạn lượng bạc, phía vương gia cũng không tiện dùng sức mạnh.


Nói đi nói lại…” Phạm Thụ An hít vào một hơi, chậm rãi nhấp một ngụm trà, nội giám Lý Trình ở bên cạnh đã sốt ruột đến độ đưa mắt ra hiệu với ông ta.

Nhưng Hồng vương đã quen rồi, vuốt râu dài mỉm cười không lên tiếng, nghe Phạm Thụ An im lặng phút chốc trong phòng sách rồi lại thong thả nói, “Lúc nào cũng nhận lời sẽ chỉ làm hoàng đế được đằng chân lân đằng đầu thôi.

Vương gia cứ đồng ý với triều đình trước, sau này nhặt cái đinh mềm làm hắn ta chạm phải, không thể để cho hắn ta mò ra tình hình bên trong của chúng ta được.”
“Nói phải lắm!” Hồng vương nói, “Vả lại thái hậu tự mình mở miệng, làm bà ta bẽ mặt thì chỉ đẩy bà ta về phe hoàng đế thôi.

Định Quốc ở núi Đa cũng được vài ngày rồi, người dưới tay nó chưa từng thấy việc lớn, chưa chắc có tài năng, thằng bé này lại bảo thủ.

Nghĩ đến mưu tính bảo nó đóng ở núi Đa khi trước, ta chỉ sợ nó biến khéo thành vụng.

Nay triều đình lắm chuyện, phía đông núi Đa là Ly Đô nên càng hiểm yếu, ta nghĩ vẫn nên để anh đến chỗ Định Quốc để đôn đốc.”
“Vâng, ngày mai thần sẽ lên đường.”
“Bên đó cứ làm theo bàn bạc ban đầu, chỉ cần quần nhau với bọn giặc bướng, không cần thắng, kéo dài càng lâu càng tốt.”
Cuộc hành trình lần này của Phạm Thụ An giống hệt như tính tình của ông ta, thong thả chậm rãi.

Người đưa thư mà Hồng vương phái đến núi Đa trước đó đã mang hồi âm về rồi mà ông ta mới đến bên trong ranh giới núi Đa.

Hồng Định Quốc biết ông ta chỉ đem theo hai người làm đến thì sợ ông ta gặp phải bọn giặc đánh cướp, bèn bảo thuộc hạ liên tục nghe ngóng ở chân núi, nhưng trước sau vẫn không thấy bóng dáng đâu.
Vùng núi Đa gần nhiều hồ, mùa này cơn gió ẩm ướt ôn hòa từ mặt hồ phía đông nam thổi tới khiến cho dãy núi Đa luôn có khói mây bốc lên, đỉnh núi màu xanh đen như ẩn như hiện trong mây mù vấn vít.

Hồng Định Quốc đã diệt cướp ở đây một năm rồi, biết lúc sương mù có nhiều tốp cướp xuống núi quấy nhiễu, từ khi đại quân tiến vào chiếm giữ dãy núi tới nay, chúng cũng thừa dịp sương mù dãy đặc che lấp mặt trời để đánh giáp lá cà với quan quân.

Vì vậy sau khi cân nhắc, cuối cùng hắn ta không dằn được nữa, tự mình dẫn người đến miệng núi xem chừng.
Từ xưa núi Đa chỉ có một con đường cái, lúc này cũng đã chìm trong mây khói màu sữa.

Năm trăm kỵ binh theo sau Hồng Định Quốc, kề sát nhau mới có thể nhìn rõ mặt mày, hơi xa một chút thì chỉ nghe tiếng “leng keng” của chuông ngựa và mũ giáp, tiếng vó ngựa thì lại như sấm đánh trong mây, từ trong con đường cổ dũng mãnh tiến ra.

Hồng Định Quốc giắt kiếm bên hông, tay nắm dây cương, vâng theo ý của Hồng vương mà đi ở giữa đội ngũ, mơ hồ cảm thấy chung quanh cất giấu nguy hiểm nên không dám chậm trễ thờ ơ.

Chợt nghe kẻ dẫn đầu đằng trước hét lớn một tiếng: “Ai đấy?” Theo đó là kèn lệnh vang dồn dập, tiếng dây cung vang ào ào, bên này đã có một trận mưa tên bắn qua.
Hồng Định Quốc nhíu mày hỏi: “Có chuyện gì đấy?”
“Bẩm thế tử gia.” Người quay lại báo tin phóng ngựa chạy một lúc ở trong đội ngũ mới tìm được Hồng Định Quốc, “Phía trước phát hiện một nhóm người, hỏi mà không đáp, quay đầu đi liền, Ngải tham tướng sai người bắn cung, lúc này không rõ tử thương của đối phương thế nào.”
Hồng Định Quốc lạnh lùng nói: “Đồ khốn! Nếu trận tên này mà bắn vào thầy Phạm thì một người trong số các ngươi cũng đừng hòng sống.

Đã nhìn rõ ràng chưa?”
“Nhìn rõ rồi ạ, ít nhất cũng có một trăm tám mươi người nên không phải là Phạm tướng quân.”
Hồng Định Quốc mới vừa nghĩ tới ba chữ “bọn cướp đường” thì chợt nghe trong sơn cốc có tiếng rít gió của mũi tên bay, chung quanh đột nhiên vang tiếng ngựa hí người kêu, theo tiếng vọng trong núi khiến người ta chỉ cảm thấy khắp núi đồi sau màn sương mù dày đặc toàn là bóng đao lập lòe.

Tinh binh của Hồng vương đã quen với cảnh tượng này, biết bọn giặc thích mai phục ở chỗ cao bắn cung xuống dưới nên nhao nhao giơ tấm thuẫn lên che người, trên đỉnh đầu như có một trận mưa xối xả trút xuống, một lượt tên nỏ bỗng bắn xuống.

Chúng quân sĩ đợi trận tên nỏ bắn hết thì lập tức đội thuẫn giục ngựa tản ra đường núi bên cạnh, đưa cung tên từ trong khe hở ra không ngừng bắn trả lên trên núi.

Mặc dù Hồng Định Quốc dẫn binh ở bên ngoài nhưng ít khi lâm cảnh hiểm, người đi theo chung quanh vừa tản ra thì bên cạnh không còn ai bảo vệ, một mũi tên loạn bay lướt qua xương sườn của hắn ta, còn chưa để hắn ta đổ mồ hôi lạnh xong, trong sương mù lại lao ra một mũi tên với lông đen, lao thẳng tới mặt hắn ta.

Hồng Định Quốc “ối” một tiếng trong cổ họng, cúi đầu tránh né đã không còn kịp nữa thì khóe mắt lại trông thấy một bàn tay dày rộng vươn ra từ bên cạnh, nắm chặt mũi tên trong tay.
“Thế tử gia có khỏe không?” Khuôn mặt của ông lão lộ vẻ tái nhợt đến dị thường ở trong không khí màu sữa, “Tiểu nhân là Phạm Lý Phúc, người làm trong nhà Phạm tướng quân.”
“Thầy Phạm đến rồi ư?”
“Đến rồi, đang ở trên núi ạ.” Thế tên trên núi ngừng dần, có người cười to vài tiếng, nói: “Hôm nay cho tiểu vương gia mặt mũi, ngày sau gặp, chúng ta lại đọ sức.”
Tiếng vui cười chung quanh không dứt, tiếng vó ngựa dần biến mất vào trong núi.
Trên đường hiện ra hai con ngựa gầy ốm lẻ loi, nghe thấy Phạm Thụ An khoan thai nói: “Thế tử gia ở phía trước à?”
“Chú Phạm.” Hồng Định Quốc vui vẻ nói rổi nhảy xuống từ trên ngựa.

Phạm Thụ An cũng xuống ngựa, nắm tay Hồng Định Quốc quan sát cẩn thận, trong đôi mắt hẹp dài chất đầy sự yêu thương vui mừng: “Một năm không gặp nhưng thế tử gia chẳng thay đổi gì.”
“Luôn vùi ở nơi thế này, tính tình xấu đi nhiều lắm.” Nói đoạn vọng ra phía sau Phạm Thụ An, “Vừa nãy nhờ người trong phủ của chú Phạm giúp đỡ, vị ấy…”
Phạm Thụ An vẫy tay nói: “Lý Khang, qua đây dập đầu với thế tử gia đi.”
“Tiểu nhân Phạm Lý Khang, mong thế tử gia cát tường như ý.” Người đàn ông vạm vỡ này còn cao hơn kẻ cao lênh khênh như Hồng Định Quốc một cái đầu, mặt chữ điền vuông vức, môi dày, xem chừng chất phác ít nói.
Phạm Lý Phúc cũng qua đây chào một lần nữa.

Lúc này Hồng Định Quốc mới dẫn quân về doanh trại trong núi, bỗng nhiên nghĩ đến một chuyện, không nhịn được mà hỏi: “Chú Phạm mới vừa ở trên núi làm gì mà khiến cho những tên cướp này lập tức lui quân đi vậy?”
“Cũng không có gì.” Phạm Thụ An không khỏi mỉm cười, “Chẳng qua là lên tiếng chào, nói thế tử gia ở đây.”
“Hả?”
“Chúng đã biết ý định của thế tử gia khi ở chốn này.

Nếu mọi người đều ngầm hiểu, gặp dịp thì diễn, lỡ hôm nay ngộ thương thế tử gia, kết oán khó hóa giải với Hồng vương thì e một ngón tay của lão vương gia đã có thể nghiền nát hai mươi trại núi Đa của chúng rồi, thà rằng thấy đỡ thì thôi.”
Hồng Định Quốc cười bảo: “Chẳng trách, một năm qua nhìn chung đều sống yên ổn với nhau.”
Một vệt sáng vàng đột nhiên bắn vào trước mặt đội ngũ, thì ra sương mù lảng bảng tan, mặt trời nhô lên, dốc thoải xanh xanh hiện ra một dãy doanh trại liên tiếp trắng như tuyết dưới ánh mặt trời.

Phạm Thụ An híp mắt gật đầu, chậm rãi nói: “Dựa lưng vào thế núi, nguồn nước thông suốt, ra vào rộng mở, không tệ.

Mấy năm nữa, thế tử gia cũng sẽ là chủ soái lĩnh binh tài giỏi giống lão vương gia.”
Hồng Định Quốc đáp: “Chú Phạm đang giễu cợt ta đấy à? Phụ vương hơn hai mươi tuổi đã đem binh đến biên cương xa xôi, huyết chiến cùng Hung Nô, kẻ làm con trai này đuổi kịp thế nào được?”
“Không đâu, với tư chất của thế tử gia, quả thật có thể gọi là nhân kiệt đời nay.” Phạm Thụ An nói đến đây, giọng điệu lại trở nên u sầu lạ thường, Hồng Định Quốc thậm chí cảm thấy ông ta khẽ thở dài, khiến người ta cảm thấy chẳng lành.
Phạm Thụ An giám sát quân đội trong doanh trại núi Đa không quá nửa tháng thì ý chỉ trưng thu lương thực của triều đình đã ban xuống.

Người tuyên chỉ với Hồng châu chính là nội thần của giám Ti lễ.

Hồng Định Quốc phái năm trăm người đón hắn ta vào doanh, hỏi ra mới biết không chỉ đất phiên mà hoàng đế còn phái người đến các phủ các châu giám sát lương thảo, điều động thuế khóa.

Quan trưng thu lương ở Hồng châu phía tây họ Cao, tên Hậu, tự Dĩ Nhân, nguyên là lang trung ty Thanh Hồng của bộ Hộ.

Hồng Định Quốc nghe vậy thì cười nói với Phạm Thụ An: “Thì ra bộ Hộ còn có ty này? Những năm gần đây thuế ruộng hai châu Thanh, Hồng vẫn do Hồng vương tự quản, ta còn tưởng ty này đã bị bỏ từ lâu rồi cơ.”
Phạm Thụ An nói: “Thiên hạ chung quy vẫn là của đương kim hoàng đế, thế tử gia chớ nói lời này.

Tôi có nghe nói về Cao Hậu này, tuy hắn ta không cùng bé đảng với Lưu Viễn nhưng lại cực kỳ nhiệt tình đối với chuyện loại bỏ phiên vương.

Nói ra thì người này không lớn tuổi lắm, song lại từng đụng chạm với lão vương gia.”
“Đụng chạm?” Hồng Định Quốc ngạc nhiên hỏi, “Nhưng ta còn chưa từng nghe nói đến người này bao giờ kia mà?”
Phạm Thụ An mỉm cười tránh đề tài của Hồng Định Quốc, chỉ nói: “Hoàng đế phái Cao Hậu vào Hồng châu là muốn lão vương gia e dè bị dùng việc công để báo thù riêng, không tiện xuống tay với hắn ta.

Chắc bên cạnh hoàng đế có cao nhân đây.”
Hồng Định Quốc cười khẩy, nói: “Cao nhân? Lẽ nào chú Phạm cũng giống hoàng đế, cho rằng thiên hạ này còn có người nào mà nhà họ Hồng chúng ta không dám xuống tay sao?”
Phạm Thụ An cười bảo: “Ha ha, chỉ sợ lão vương gia và thế tử gia suy nghĩ giống nhau.”
Năm Khánh Hi thứ mười, Cao Hậu bốn mươi mốt tuổi.

Lúc hắn ta dập đầu từ giã hoàng đế ở cung Càn Thanh, đại thái giám Cát Tường đã nhìn ra ấn đường hắn ta biến thành màu đen, mây đen bao phủ trên đầu, tuy Cát Tường không ngờ rằng vận mệnh của Cao Dĩ Nhân lại bị một câu nói hời hợt như vậy của Hồng Định Quốc quyết định nhưng y luôn cảm thấy chuyến này của con cháu nhà họ Cao chưa rõ sống chết, tiền đồ đáng lo.
Cát Tường không phải người hay lắm miệng, nhất là lời như vậy thì dù là với Như Ý và Tịch Tà cũng không thể tùy tiện nói bừa.

Lúc bấy đã qua Trung thu từ lâu, cũng sắp vào đông rồi, trong cung lại đang rối tung lên cắt giảm chi tiêu các cung do giám Ti lễ dẫn đầu, dù là nô tỳ bên cạnh các chủ nhân cũng phải xén hơn ba phần tiền tiêu hàng tháng.

Kể từ đó, giám Ti lễ khó tránh khỏi trở thành mục tiêu công kích, ngay cả người thoải mái phóng khoáng như Như Ý mà cũng bắt đầu thận trọng từ lời nói đến việc làm, huống chi là Cát Tường trước nay lão luyện thận trọng.
Năm ngoái cục Châm Công phải bận rộn làm quần áo bông mùa đông nhân việc này mà ăn bơ làm biếng, ngoại trừ Nghị phi chờ sinh, còn phải chuẩn bị ít quần áo cho trẻ sơ sinh ra thì trên dưới cả cung không ai làm đồ mới nữa.

Toàn bộ người trong nha môn chỉ đành không ngừng thu xếp chọn lực gấm vóc trong kho cung ứng của nội phủ, chỉ còn thái giám quản lý là Trương Cố ngồi chơi trong phòng cung.


Ánh mặt trời ấm áp của ngày trời trong xuyên qua cửa sổ, chiếu lên trên người, tuổi tác Trương Cố cũng đã cao, dần dà nhắm mắt ngủ gật, đột nhiên nghe tiếng mành vang lên “xào xạc”, mở mắt ra thì thấy một cái bóng áo xanh thò đầu vào trong.
“Thằng khỉ gió nào đấy, mau lăn vào đây.”
Tiểu Thuận Tử cười nói ở ngoài cửa: “Ông Trương, ngài nhàn rỗi ghê nhỉ?”
Trương Cố chậm rãi ngửa người, nâng chén trà lên súc miệng, Tiểu Thuận Tử vội lấy ống nhổ hầu hạ ở phía dưới.
“Thằng nhóc nhà cậu tới làm gì? Thầy cậu đỡ hơn chút nào chưa?”
“Vẫn thế ạ.” Tiểu Thuận Tử thở dài, “Hơi ho, còn đâu thì vẫn khỏe.

Thầy tôi bảo tôi tới hỏi thăm ông Trương, hỏi xem trong nha môn của ông Trương có việc gì cần làm không.”
“Còn có việc gì cần làm nữa? Nhàn lắm! Về bảo Tịch Tà nên dưỡng bệnh thì dưỡng bệnh, nên điều trị thì điều trị, giờ còn trẻ mà sau Trung thu đã không thấy cậu ta có tinh thần gì cả, sau này làm sao hầu việc được?”
“Vâng.”
“À, đúng rồi!” Trương Cố lại nói, “Cậu đi ra phía sau trong phòng, cầm cái bọc da xanh lén đưa cho cô nương Minh Châu, nói là đồ dự bị cho công chúa nhỏ của Nghị phi, xin cô bé nên thêu gì thì thêu.”
“Ôi!” Tiểu Thuận Tử chạy bước nhỏ, đi rất nhanh.
Trương Cố cười, chợt nghe con chim trong lồng bên ngoài hành lang kêu “chiêm chiếp” ầm lên.

“Vị nào thế nhỉ?” Trương Cố tụt xuống giường, lê đôi hài đi ra ngoài cửa.
“Lão Trương, ngài có khỏe không?” Dưới hiên, một người thanh niên chừng hai mươi lăm hai mươi sáu tuổi, vận quần áo trong cung màu hoa hạnh, khuôn mặt tròn hồng hồng trắng trắng, môi đỏ như son.
“Ô, anh ba.” Trương Cố biết tay Chiêu Phúc – học trò thứ ba của thái giám Thất Bảo là một nhân vật khó dây dưa, thầm thở dài trong lòng, cười rồi lại chào hỏi người phía sau gã, “Anh tư cũng tới à?”
Tiến Bảo đang nghịch chim trong lồng, cười nói: “Lão Trương, trước kia không biết ngài còn thích nuôi mấy con vật nhỏ đấy.”
“Đợt hè con chim này bay vào trong phòng tôi, bọn trẻ vồ được, thế là nuôi thôi.”
Tiến Bảo cười khẽ: “Ai cũng bảo hễ vào cửa cung là sâu như biển, không ngờ cũng giống chim tước.” Ngữ khí của hắn ta tao nhã thong dong, nhưng người khác nghe thấy thì luôn có cơn ớn lạnh căm căm chẳng lành bò lên sống lưng.
Trương Cố nói: “Hai anh hầu trước mặt hoàng hậu, sao lại rảnh rỗi mà đến chỗ này?”
Chiêu Phúc nói: “Lão Trương đúng là quý nhân hay quên.

Hai anh em tôi nghĩ áo bông mới chắc đã làm xong rồi, mà để mấy thằng thuộc hạ tới lấy thì không kính trọng ngài, vừa lúc buổi chiều không có việc nên tiện thể qua đây hỏi thăm ngài.”
Trương Cố ngẩn người ra, hỏi: “Áo bông mới? Hai anh cứ nói đùa, vạn tuế gia đã hạ chỉ, còn có ai dám làm áo mới để mặc chứ?”
Chiêu Phúc cười nói: “Lão Trương, hai anh em tôi đã nói với cục Châm Công từ đầu mùa xuân rồi, ngài còn nhớ không?”
“Ôi, xin lỗi.

Không phải là tôi quên, chỉ là năm nay từ xuân tới thu cục Châm Công không có lúc nào được nghỉ, tới lúc có thể rảnh rỗi làm xiêm áo cho người trong cung thì khác vạn tuế gia lại hạ chỉ xuống.

Nếu hai anh có thể chín bỏ làm mười thì xuân tới tôi sẽ bảo bọn nhỏ làm xong sớm rồi đưa đến cho các anh.”
Chiêu Phúc nhẹ nhàng cười gằn một tiếng: “Bọn tôi tạm mặc áo cũ cũng không hề gì, chỉ sợ hoàng hậu nương nương thấy chúng ta áo rách quần manh, lại răn dạy bọn tôi làm mất thể thống.”
Trương Cố cũng là kẻ lõi đời, lập tức cười bảo: “Trong cung không có ai mặc quần áo mới, anh ba, anh tư lại được vinh dự vẻ vang đi lại ở ngự tiền, các chủ nhân hỏi tới thì chung quy sẽ không tốt.

Hay là thế này, đằng nào giờ cục Châm Công cũng rỗi rãi, nhân công sẽ hiểu là áo bông của hai anh lấy từ tiền túi của tôi, người khác có hỏi tới thì cũng không tính là chi tiêu trong hoàng cung.”
Chiêu Phúc nói: “Hai anh em tôi không nhận nổi lời này của lão Trương đâu.

Bao năm nay bọn tôi muốn biếu ngài mà còn không có cơ hội đây này, làm sao có thể để ngài tiêu pha? Hơn nữa bọn tôi mang con bài ngà không giống đám nhóc áo xanh, thế thì vốn là chuyện danh chính ngôn thuận lại biến thành may áo quan riêng, bọn tôi không gánh nổi đâu.”
Trương Cố tỏ vẻ không biết làm sao, trầm ngâm nói: “Cũng phải, anh ba xem nên làm thế nào?”
Chiêu Phúc bỗng nghẹn lời, thình lình nghe Tiến Bảo lạnh lùng quát một tiếng: “Đứng lại! Trong mắt không có bề trên à?”
Chỉ thấy ở hành lang đối diện Tiểu Thuận Tử ôm một cái bọc, đang cúi đầu đi vội ra ngoài.

Cậu nghe Tiến Bảo gọi mình, mới lắp bắp, lần lữa đi tới, cho dù biết Tiến Bảo vẫn thanh lịch tao nhã, vẻ mặt ôn hoà cũng không dám ngẩng đầu nhìn lấy một cái mà thỉnh an: “Tam gia, tứ gia.”
Chiêu Phúc cười lạnh bảo: “Tôi còn hỏi vì sao cậu thấy người là tránh, thì ra là mặc quần áo mới nên ngại gặp người khác.

Suy cho cùng thì cũng là trò của người thu mua ở cục Châm Công, gần quan được ban lộc, lúc ai nấy đều thắt lưng buộc bụng, cậu còn có áo hai lớp mới mà mặc ra ngoài huênh hoang.”
Trương Cố lấy làm kinh hãi, lúc này mới nhìn kỹ quả nhiên áo hai lớp của Tiểu Thuận Tử mới tinh, vẫn còn cả nếp.

Lại nghe Chiêu Phúc lời mặn lời nhạt mà chỉ gà mắng chó thì không khỏi thẹn quá hóa giận, bảo: “Tiểu Thuận Tử, tam gia hỏi cậu đấy!”
“Tôi, tôi…” Tiểu Thuận Tử sợ đến mức mặt trắng bệch, lui về phía sau mấy bước mà không nói ra được nguyên cớ.
Chiêu Phúc lại bảo: “Nghe nói người thầy cậu không thoải mái, cả ngày dùng nấm tuyết, sữa để bồi bổ, không phải là sắp sánh bằng nương nương trong cung rồi sao? Sau này tam gia, tứ gia của cậu cứ làm người hầu cho thầy cậu là được, thể nào cũng có áo bông qua mùa đông.”
Tiến Bảo mỉm cười không tiếp lời, vẫn nhàn nhã ở bên cho chim ăn gạo, khóe mắt thoáng thấy có người tiến vào cửa viện thì sầm mặt lại, thầm kéo tay áo của Chiêu Phúc.
“Lão Trương đang tức ai đấy?” Người đi vào là Như Ý, gã đảo mắt thấy Tiểu Thuận Tử thì mắng, “Cậu trông mình đi, đã lớn thế này mà còn hay chọc giận, thằng sáu không quản được cậu, lão Trương của cục Châm Công cũng không quản được cậu, còn muốn tam gia, tứ gia cậu dạy bảo, có mất mặt không?”
Chiêu Phúc, Tiến Bảo biết anh ta nói mình, bước lên trước chào hỏi: “Chào nhị sư ca.

Chẳng qua là bọn em đang xem áo hai lớp mới của Tiểu Thuận Tử thôi.

Nếu nhị sư ca tới thì nhất định là có ý chỉ của vạn tuế gia, bọn em không cản trở việc chính của nhị sư ca nữa.” Nói rồi hai người chắp tay cáo từ.
Như Ý bảo: “Đừng, khó lắm mấy anh em ta mới được nói chuyện phiếm mấy câu mà.”
Tiến Bảo cười nói: “Không phải là nhị sư ca không biết, bây giờ sư đệ được hoàng hậu sai đến chỗ Nghị phi nên bận lắm.

Ngày khác mời nhị sư ca uống rượu say vậy.”
“Cũng được.” Như Ý nhìn họ ra khỏi viện rồi mới hỏi, “Có chuyện gì thế?”
Trương Cố nói: “Không có gì, già rồi, trí nhớ không tốt, quên mất áo bông cho hai anh.

Vừa vặn Tiểu Thuận Tử đi ngang qua, bọn họ bèn vây quanh xem áo hai lớp mới của Tiểu Thuận Tử.”
“Cái này không phải đồ mới đâu.” Tiểu Thuận Tử hết sức ấm ức, “Năm nay tôi cao lên không ít, áo hai lớp, áo bông của năm ngoái, thậm chí cả xiêm áo cũ của thầy cũng không mặc vừa.

Chị Minh Châu mới tìm áo hai lớp của ngũ gia để may lại cho tôi mặc đấy.”
Trương Cố cười bảo: “Thằng nhóc con, vừa rồi sự thông minh cơ trí đi đâu hết rồi, sao không nói sớm.”
“Nhị gia biết mà, tôi thấy tam gia, tứ gia từ xa đã không dám thở mạnh chứ đừng nhắc đến nói chuyện.”
Như Ý nghe cậu nói đây là vật Khu Ác để lại thì không khỏi thấy vật nhớ người, cười gượng bảo: “Thằng nhóc nhà cậu đã lớn ngang ngửa tôi rồi, sau này cũng có tiền đồ.

Cậu chờ đấy, tôi hỏi lão Trương mấy câu rồi sẽ đi thăm thầy cậu.”
Tiểu Thuận Tử vui vẻ nói: “Vâng.”
“Cậu vui mừng cái gì, tôi đi qua là để bảo thầy cậu dạy bảo cậu, để cậu bớt ra ngoài gây chuyện thị phi.”
Lúc họ đến viện Cư Dưỡng, Tịch Tà đang tựa trên giường đọc sách.

Như Ý nói: “Em đừng dậy.

Đã khỏe hơn chút nào chưa?”
Tịch Tà khép sách lại đáp: “Không có chỗ nào không khỏe hết, chỉ muốn lén làm biếng vài ngày thôi ạ.”
Tiểu Thuận Tử nói: “Thầy bị lạnh thì sẽ đau ngực, nhờ có tôi xoa bóp cho thầy đấy.”
Tịch Tà cười bảo: “Ta chẳng còn mấy cái xương sườn chưa gãy đâu.

Mau đi rót trà cho nhị gia!”
Như Ý nói: “Anh mới từ cục Châm Công qua đây, hoàng thượng bảo anh đi hỏi xem bên kia chuẩn bị thế nào rồi.”
“Chắc là cũng hòm hòm rồi.

Nghị phi sinh trong tháng Mười một, đến bây giờ ai còn dám chậm trễ?”
“Em đoán xem, anh đụng mặt thằng ba, thằng tư, nhờ ấy mà lại nhắc nhở anh hỏi em một việc đây.

Hoàng hậu sai Tiến Bảo đến cung của Nghị phi rồi, nói là để người đắc lực hầu Nghị phi chờ sinh.

Anh luôn cảm thấy khó chịu, em thấy thế nào?”
Tịch Tà thấp giọng nói: “Nếu nói người trong cung không hy vọng Nghị phi sinh ra hoàng tử nhất thì chính là hoàng hậu.”
Như Ý gật đầu, thấy Tiểu Thuận Tử bưng trà vào thì tiện miệng nói: “Không phải cậu muốn đi tìm Minh Châu à? Mau đi đi.” Chờ cậu đi xa rồi, anh ta mới thấp giọng hỏi, “Em xem liệu Tiến Bảo có…”
Tịch Tà thở dài: “Chúng ta đều biết thủ đoạn của Tứ sư ca.

Nếu như Nghị phi sinh công chúa thì mọi người đều thái bình.


Nếu thực sự là hoàng tử thì e từ nay về sau cung Khánh Tường của nàng không được an bình.

Đến lúc đó tất phải nhìn chằm chằm mỗi người.”
Như Ý nói: “Bà đỡ là do thái hậu chọn, đã vào thăm nhiều lần.

Hoàng hậu và Nghị phi đều hỏi bà ta rốt cuộc là rồng hay là phượng, tiếc là người đàn bà ấy rất kín miệng, sống chết không chịu nói một câu chắc chắn.”
Tịch Tà phì cười, xoa ngực bảo: “Chẳng ai lại đi mở miệng nói lung tung, còn cần mạng nữa không?”
Như Ý cau mày nói: “Em sáu, em nói thật với anh, rốt cuộc em bị bệnh gì? Trước đây không như vậy mà.

Có phải hao quá nhiều sức lực chăng? Thái y đã xem qua chưa?”
“Xem rồi ạ.

Thầy Trần nói không sao, mùa đông năm nay chỉ cần uống viên thuốc của ông ta thì đầu xuân có thể khỏi hẳn.”
“Trần Tương?” Như Ý thoải mái cười nói, “Ông ta nói không sao thì nhất định là không sao.”
Thời tiết lạnh thật rồi.

Trong tháng Mười một, bầu trời âm u, tuyết lớn xếp đống ở trên mây đen, không chịu rơi xuống làm lưu ly trên nóc cung không được ánh mặt trời rọi chiếu phải mất hết màu sắc.

Trong cung phàm là người có chút thân phận thì đều trốn ở trong phòng, rất ít khi đi ra ngoài, tường ấm đốt lò sưởi, hơ đến mức miệng lưỡi khô không khốc, đối lập với cái âm u lạnh lẽo ở bên ngoài lại là một cảm nhận khác.

Do hoàng đế ghét trong phòng khô hanh nên Cát Tường và Như Ý đã sai người chuyển hơn mười chậu hoa cỏ vào, hút hết khí nóng trong phòng, bất kể ở góc nào đều thấm đẫm mùi hương.

Lúc rảnh, hoàng đế thích cầm mật tấu của các nơi đi tới trước hoa cỏ mà đọc, như thể việc này có thể đè nén sự thô bạo trong lòng xuống vậy.
Từ sau khi cử sứ trưng thu lương thực đến các nơi, gần như chỉ trong vòng ba ngày sứ trưng lương trú ở đất phiên họ ngoại đều có mật tấu lên kinh, lại thêm tấu của bố chính sứ Hàn châu Thái Tư Tề, trong một đống tấu lớn không có câu nào khen các thân vương.

Ngay cả Lưu Viễn và Thành Thân vương cũng không tiện xem những tấu sớ này, hoàng đế chỉ có thể hỏi Tịch Tà: “Chẳng lẽ thật sự đều có ý làm phản thế ư? Có phần quá phách lối càn quấy rồi đấy.”
Tịch Tà nhặt mấy quyển ra nhìn cẩn thận, cười nói: “Hoàng thượng xem, ở đây nói Tây vương Bạch Đông Lâu lén chế cổn miện, giấu giếm ngọc tỷ, ý đồ mưu phản, nô tỳ cảm thấy rất giả dối.

Cho dù Bạch Đông Lâu đại nghịch bất đạo đến thế, cũng sẽ không để áo cổ̀n ngọc tỷ của mình tùy tiện lộ ra, sao người chuyên đến thăm dò của triều đình lại dễ dàng biết được?”
Hoàng đế nói: “Khanh thấy bên trong có chỗ nào giả dối?”
“Tất nhiên chuyện này thà tin là có chứ không thể không tin.

Có điều hoàng thượng đã biết dã tâm của chúng không nhỏ, kết đảng trở thành mối họa, nay dù ông ta thật sự có cổn miện ngọc tỷ thì hoàng thượng cũng không đến mức sửng sốt, không cần nổi giận.”
Hoàng đế cười nói: “Khanh nói như vậy, trẫm quả thật là tức giận không đâu rồi.

Nhưng nói đi cũng phải nói lại, vì lẽ gì mà trong những tấu sớ này đều nói về tội bất trung bất kính của các thân vương?”
Tịch Tà nói: “Mọi người đều biết quyết tâm diệt trừ phiên vương của hoàng thượng.

Những quan viên này hiểu rõ ý thánh nên tất nhiên sẽ chọn những lời hoàng thượng muốn nghe mà nói, có khi vội quá, khó tránh khỏi bịa đặt.

Tấu sớ của Thái Tư Tề và Cao Hậu cũng có ít đầu mối đấy ạ.” Nói rồi đưa trả tấu sớ của hai người cho hoàng đế, “Ở đây nói trong số tiền thuế hằng năm của Đông vương Đỗ Hoàn có chừng năm mươi vạn lượng không về kho, không rõ đổ về đâu.

Tấu của Cao Hậu cũng nói mấy ngày trước tướng quân du kích của Đốc châu áp tải mười chiếc xe lớn vào thẳng Hồng châu, tìm hiểu ra mới biết cứ hai ba tháng đều có người của Đốc châu áp tải đội xe đến Hồng châu, đến nay vẫn không biết vận chuyển hàng hóa gì, đi về phía nào.

Mặt khác, Cao Hậu nghiên cứu hết sức tường tận về thuế má, điền sản, lực lượng canh phòng của hai châu Thanh, Hồng, có tài cán để hoàng thượng dùng đấy ạ.”
“Hai người ấy rất đắc lực, xem như là dùng đúng rồi.” Hoàng đế đứng dậy thong thả đi đến trước hoa, than thở, “Trong triều đình còn có người như vậy không?”
Cát Tường khẽ ho một tiếng ở bên ngoài, bẩm: “Vạn tuế gia, Tến Bảo trong cung Khánh Tường của Nghị phi đã chờ ở bên ngoài một lúc rồi, vạn tuế gia có muốn để hắn vào bẩm tấu không ạ?”
Hoàng đế hỏi: “Hôm nay đã là mười mấy rồi?”
“Bẩm vạn tuế gia,” Cát Tường cười nói, “Hôm qua là mười chín, nay đã là ngày hai mươi rồi ạ.”
“Khanh đi hỏi Tiến Bảo xem có phải Nghị phi sắp sinh không.

Nếu vậy thì bảo hắn mau trở về, bên kia quan trọng hơn.

Tịch Tà,” Hoàng đế nói, “Trẫm muốn khanh đến cung Càn Thanh làm nhiệm vụ, khanh làm công hàm tóm lược mật tấu cho trẫm, giao trả việc của cục Châm Công đi.”
“Được hoàng thượng dìu dắt, nô tỳ cảm động đến rơi nước mắt.” Tịch Tà dập đầu nói, “Nếu như…”
Hoàng đế cười hỏi: “Nếu như thời cơ thích hợp hơn thì sẽ tốt hơn, đúng không?”
“Hoàng thượng thánh minh.”
Hoàng đế thở dài, nói: “Khanh về suy nghĩ lại đi.”
Tịch Tà lui ra phòng ngoài, thấy Hoắc Viêm cầm tấu sớ trong tay ở dưới hiên, đang bảo đám thái giám nhỏ ba chân bốn cẳng cởi áo choàng xuống cho y.
“Công công.” Hoắc Viêm chắp tay.
“Anh thám hoa, hiếm thấy thật.” Tịch Tà cười rồi đến gần hơn, “Sắp hoàng hôn rồi, Hoắc thám hoa vẫn còn đang làm nhiệm vụ ư?”
Hoắc Viêm nở nụ cười hết sức khó coi, trả lời: “Lưu thái phó bảo ty chức cầm văn kiện này đến ngay cung Càn Thanh, là văn kiện khẩn cấp của Hồng vương, giờ Thành Thân vương cũng sắp tới rồi.”
Tịch Tà ngẩn ra, thấy thân hình Hoắc Viêm che khuất đám thái giám nhỏ, nhanh chóng mở tấu sớ của Hồng vương trong tay ra.

Tịch Tà đọc nhanh như gió, xem đại khái rồi khẽ nhíu mày, chợt cười nói: “Hoàng thượng sẽ triệu kiến Hoắc thám hoa ngay thôi, giờ nô tỳ xin cáo từ.”
Hoắc Viêm đợi trong chốc lát, nghe hoàng đế gọi mới dâng tấu chương vào.

Thì ra hoàng đế đang chuẩn bị đến cung Từ Ninh chờ tin của Nghị phi cùng thái hậu, cả quần áo cũng đã thay, lúc này bèn cởi xiêm áo vừa dày vừa nặng ra, đoạt lấy tấu trong tay Hoắc Viêm và hỏi: “Tấu gấp gì đấy?”
“Tấu hạch tội của Hồng vương ạ, hạch tội Cao Hậu ở hai châu Thanh, Hồng ra sưu cao thế nặng, tham ô không làm tròn trách nhiệm, ai nấy ở địa phương đều căm phẫn.

Để tránh kích thích dân biến nên Hồng vương đã giam lỏng Cao Hậu ở trong dịch quán của Hồng châu, tấu gấp xin ý chỉ của hoàng thượng.”
Hoàng đế vội vàng nhìn hết tấu chương, hỏi: “Lưu Viễn đã xem chưa?”
“Thái phó đang chờ Thành Thân vương rồi cùng qua đây xin gặp.”
Hoàng đế nói với Cát Tường: “Bọn họ đến thì cứ gọi vào.”
Cát Tường thấy hoàng đế tức giận đến mức cả người run rẩy, mím chặt môi không lên tiếng thì biết rõ việc lớn tanh bành, bèn đi ra ngoài nhắc các nội giám đang làm nhiệm vụ cẩn thận ứng phó.

Hoắc Viêm một mình đối mặt với hoàng đế, chân tay luống cuống, tiếng nước trong suốt trong bình đồng nhỏ giọt ở cung Càn Thanh lạnh thấu cả người y, mắt của y không ngừng liếc về phía cửa, thấy góc áo của Thành Thân vương chợt hiện vào.
“Hoắc Viêm, anh đi ra ngoài đi.” Tiếng Thành Thân vương hiếm khi có vẻ lạnh lùng nghiêm nghị ấy.
Hoắc Viêm lau mồ hôi lạnh, nhìn thoáng qua bóng lưng của hoàng đế rồi lặng lẽ lui ra.

Cát Tường đang sai người xách ngọn đèn sáng, thấy y bình an đi ra thì cũng thở phào nhẹ nhõm.

Mãi đến đêm khuya, Thành Thân vương và Lưu Viễn mới lui ra từ cung Càn Thanh, ai nấy đều mang sắc mặt tái xanh, xem ra không có kế hay gì.

Hoàng đế một mình ở bên trong phòng, chỉ có thể thấy bóng hắn ta đi qua đi lại ở bên trong.
Tiểu Hợp Tử được Cát Tường khiến đến cung Khánh Tường vội vã chạy về, nói khẽ với Cát Tường: “Thưa thầy, con thấy chỗ Nghị phi có nguy hiểm, đã dày vò cả đêm rồi, bây giờ vẫn chưa thấy tin tức của hoàng tử, mấy thái y đều chờ ở ngoài cung, chỉ sợ ngộ nhỡ đấy ạ.”
Cát Tường gật đầu nói: “Ta biết rồi, con đừng nói mò với người khác.” Rồi lại thương lượng vài câu với Như Ý, y cẩn thận đẩy cửa ra, nói: “Vạn tuế gia, đêm đã khuya, nô tỳ mời vạn tuế gia đi nghỉ ngơi ạ.”
Tay hoàng đế vẫn cầm tờ hạch của Hồng vương, lấy lại tinh thần, hỏi: “Đã qua giờ hợi rồi nhỉ?”
“Đã sắp đến giờ Hợi ba khắc rồi ạ.”
“Nghị phi thế nào rồi? Có tin chưa?”
“Đã hỏi nhiều lần nhưng vẫn chưa có tin ạ.”
“À.” Hoàng đế trở về bên hương án, xoa huyệt thái dương rồi chậm rãi nói, “Trẫm chờ một lát nữa.”
Cát Tường biết hắn ta ám chỉ điều gì, sau khi lui ra thì lệnh thái giám nhỏ đang làm nhiệm vụ ở cung Càn Thanh tới hết cung Khánh Tường nghe ngóng nhưng cũng không có tin tốt nào.

Cho đến khi giờ tý sắp quá mới nghe được tiếng bước chân chạy vào.
Cát Tường thấy bóng dáng Tiến Bảo thì vội vàng đẩy cửa ra bẩm: “Vạn tuế gia, người của cung Khánh Tường đến rồi.”
Hoàng đế bỗng đứng lên tới, thấy Tiến Bảo bước nhanh vào, phục xuống tại chỗ dập đầu: “Bẩm vạn tuế gia, giờ tý hai khắc Nghị phi đã sinh ra công chúa.”
“Công chúa?”
“Vâng.”
Hoàng đế chỉ cảm thấy dầu mình là người đứng đầu thiên hạ, nhưng thiên hạ to lớn lại chẳng có chuyện nào vừa lòng như ý thì không khỏi nhẹ giọng cười nhạt, cầm tấu chương trong tay ném “bộp” lên trên hương án.
“Vạn tuế gia…” Cát Tường tiến lên một bước.
Hoàng đế chậm rãi lại ngồi xuống ghế, cười bảo: “Nghị phi vất vả rồi, công chúa sinh ra là niềm vui của xã tắc, trẫm rất mừng rỡ.

Đêm nay đã khuya rồi, ngày mai trẫm sẽ đi thăm nàng và công chúa.”
Ai ơi nhớ lấy câu này, reup không khéo có ngày rụng răng.
“Lạnh quá!” Tiểu Thuận Tử móc cái bọc nho nhỏ ở trong ngực ra, đặt ở trên giường, “Lạnh quá!”
Minh Châu nói: “Mau đến bên bếp lò hơ tay cho ấm, sắp ăn cơm rồi.”
“Đã là giờ nào rồi mà thầy còn chưa ăn?”
Minh Châu cười bảo: “Vì chờ cậu về đấy, ngay cả tôi cũng đói cùng đây.”
Tịch Tà nghe tiếng đẩy mành trong phòng đi ra, Tiểu Thuận Tử vội vàng nói: “Thưa thầy, đồ ở trên giường đấy ạ.”
Tịch Tà lục từ trong bọc ra mấy quyển sổ con bằng da trắng.

Minh Châu thấp giọng hỏi: “Bảo Tiểu Thuận Tử cầm từ chỗ Khương Phóng không sao chứ?”
Tịch Tà cười nói: “Không phải là không sao mà là không còn cách nào khác.

Dù sao tấu sở phía tây đã chậm một hai ngày, lại chuyển tới chuyển lui, đến khi vào tay tôi thì chỉ sợ nhìn thấy cũng đã vô dụng rồi.”
Tiểu Thuận Tử đói đến mức bụng sôi òng ọc, đã ngồi nghiêng ở trên mép giường từ lâu, thấy Minh Châu bưng mấy món ăn lên bàn, vốn định vỗ tay hoan hô nhưng đảo mắt thấy vẻ mặt Tịch Tà càng ngày càng nghiêm trọng thì rụt cổ, không dám lên tiếng.

Minh Châu thừa dịp Tịch Tà khép cuốn sổ thứ nhất lại, hỏi vội: “Lục gia ăn cơm trước đã rồi hãy xem, có được không?”
“Được!” Tịch Tà không yên lòng đáp một tiếng nhưng vẫn cứ tiếp tục lật xem, cuối cùng khẽ nhíu mày một cái.
Minh Châu thấy Tiểu Thuận Tử ở bên không dám động đậy thì thở dài bảo: “Chúng ta ăn trước, thầy cậu còn phải một lát nữa cơ.”
“Chờ đã!” Tịch Tà đột nhiên ngẩng đầu.
“Gì vậy thầy?” Tiểu Thuận Tử lập tức buông chiếc đũa mới cầm lên.

Tịch Tà khép quyển sổ trong tay lại, nói: “Bên ngoài có người đến.”
“Tịch Tà!” Bên ngoài viện đã truyền đến tiếng của Như Ý, “Mau ra đây.”
Tịch Tà thấp giọng bảo Minh Châu: “Cất vào.”
Minh Châu cuốn sổ con vào trong bọc, vén mành lên lui vào phòng sau.
Tịch Tà đi ra ngoài phòng, gió lạnh thổi vào làm hắn rùng mình, thấy Như Ý phe phẩy phất trần nghiêng người vào sân, một cái bóng cao to theo phía sau, chính là hoàng đế.
“Hoàng thượng vạn phúc.” Tịch Tà dẫn Tiểu Thuận Tử quỳ xuống dập đầu ở trong sân, “Hoàng thượng hạ mình quá bộ đến làm nô tỳ không khỏi sợ hãi.”
Hoàng đế cười nói: “Mau đứng lên, mặt đất lạnh lắm.”
“Sao vạn tuế gia lại muốn đến chỗ này của nô tỳ vậy ạ?”
“Không phải là mới từ chỗ Nghị phi ra đó sao? Hôm nay hình như thái hậu hơi trách nàng sinh ra công chúa, nói là năm sau phải chọn tú nữ vào cung lần nữa.

Nàng cảm thấy ấm ức, khóc lóc kể lể cả nửa ngày, trẫm thấy bực mình nên muốn giải sầu.

Nghe Như Ý nói buổi tối chỗ khanh luôn thổi bếp lò, bèn tới đây dựng lửa, uống hai chén.”
“Nô tỳ không nhận nổi.” Tịch Tà thấy hoàng đế đi tới nhà giữa, vội nói, “Nhà giữa là chỗ ở trước kia của thầy nô tỳ, để không gần hai năm rồi, bên trong thật sự rất lạnh.

Phòng nô tỳ đốt lửa, nếu hoàng thượng không ngại chỗ nô tỳ bẩn thì hãy nghỉ một lát ở trong phòng của nô tỳ, có được chăng?”
Hoàng đế gật đầu vào nhà, thấy mấy món ăn trên bàn ở giường còn chưa động tới, bày ba bộ chén đũa thì cười hỏi: “Hóa ra Minh Châu cũng ở đây, người đâu rồi?”
Minh Châu uyển chuyển đi ra từ bên trong, dập đầu thỉnh an.
“Bây giờ mới biết cuộc sống của khanh thật tốt, trẫm chỉ nói khanh vẫn đang bệnh, còn cho rằng thê lương lắm, ngờ đâu khanh đã có người đẹp hầu hạ.”
Minh Châu cười nói: “Nô tỳ bạc mệnh, ăn không quen sơn hào hải vị trong cung, có lúc nhớ đến món ăn quê nhà, bèn qua đây mượn cái bếp ở viện Cư Dưỡng để sử dụng.

Để vạn tuế gia chê cười rồi.”
Tịch Tà cũng thưa: “Thầy trò nô tỳ chỉ mặt dày huởng ké thôi ạ.”
Như Ý cười nói: “Nếu hoàng thượng đã tới, Minh Châu cứ trổ hết tài năng, làm mấy món sở trưởng thật ngon, hoàng thượng thấy ngon, tất sẽ ban thưởng.”
“Nô tỳ không ham muốn phần thưởng của hoàng thượng, chỉ cần được hoàng thượng nói một chữ “ngon”, nô tỳ đã cảm thấy mãn nguyện rồi.”
Hoàng đế ngồi ở trên giường, Tịch Tà đã lệnh cho Tiểu Thuận Tử hơ nóng đũa và chén rượu bạc, vừa hâm lại rượu tới nói: “Đây là rượu mà thầy nô tỳ giấu lúc trước, hoàng thượng uống tạm vậy.”
Hoàng đế ngắm nhìn bốn phía, thấy trong phòng được dọn dẹp không nhiễm một hạt bụi, lại không có vật trang sức nào thì cười bảo: “Chỗ khanh thật sạch sẽ.” Đoạn chỉ vào hai chậu trúc lớn hình lưng rùa ở trong góc nói: “Thì ra phương pháp của Cát Tường và Như Ý học từ chỗ khanh.”
“Hoa cỏ cũng có thể tu dưỡng con người.”
“Hoa cỏ cũng có thể tu dưỡng con người.” Hoàng đế khẽ cười nhạt, “Trẫm vốn tưởng cỏ thơm khắp phòng có thể tạo thành khí độ thanh nhàn của con người, không ngờ mình vẫn không kềm chế được.”
Tịch Tà rót rượu thay hoàng đế, nói: “Hoàng thượng thế này vì chuyện gì vậy?”
Hoàng đế lắc đầu, mới vừa uống xong chén rượu này, Minh Châu đã lại thêm bốn món nhắm, còn cả dưa chua nàng muối theo cách của Đại Lý ở trong cung, cũng xếp lên hai cái mâm.

Hoàng đế gắp một ít lên nếm, chỉ cảm thấy trong chua cay mang theo vị ngọt nhè nhẹ, thực là giòn tan ngon miệng, bèn khen một tiếng “Ngon”.
“Như Ý, khanh khen ngợi tay nghề của Minh Châu nhiều ngày rồi, đi chỗ khác đi, có Tịch Tà hầu hạ trẫm rồi.”
Như Ý cười nói: “Vạn tuế gia thương xót, nô tỳ tạ chủ long ân.” Rồi nháy mắt với Minh Châu và Tiểu Thuận Tử, sau đó lui ra ngoài.

Trong phòng tĩnh lặng trong chốc lát, hoàng đế ngẩn ngơ nghĩ gì khác rồi lại uống cạn một chén, Tịch Tà lẳng lặng cầm bình rót đầy.
“Khanh ngồi đi.” Hoàng đế chỉ vào chỗ đối diện chiếc bàn trên giường, không yên lòng cười, “Vừa mới nói cái gì nhỉ?”
“Đang nói đến hoàng thượng nhọc lòng vì việc gì ạ.”
Hoàng đế nói: “Khanh đã biết chuyện của Cao Hậu chưa?”
“Đã nghe một ít.” Tịch Tà để bầu rượu xuống, ngồi nghiêng ở trên mép giường, “Hoàng thượng muốn hỏi gì ạ?”
“Rốt cuộc hắn ta ở Hồng châu có giống Hồng vương tố cáo, làm những chuyện vơ vét của dân không?”
“Lúc ở Hồng châu, Cao Hậu đặt quyền lợi chung lên quyền lợi riêng, là ngọc trắng không tỳ vết.” Mặt Tịch Tà ở dưới ngọn đèn trắng đến mức trong suốt, lúc cái từ “ngọc trắng không tỳ vết” được nói ra từ trong miệng hắn, hoàng đế không khỏi ớn lạnh cả kinh, “Hồng châu càng không có nỗi lo dân biến.”
Hoàng đế dời ánh mắt đi: “Hồng vương tố cáo không có thật, ông ta vội vã giết Cao Hậu là vì nguyên nhân khác?”
“Mấy ngày trước trong mật tấu Cao Hậu nói đã chạm đến chỗ đau của Hồng vương, không giết thì Hồng vương khó có thể an giấc.

Trưng thu lương thực ở đất phiên thì càng can dự vào chính trị riêng của đất phiên, không giết thì làm sao có thể áp chế nhuệ khí của hoàng thượng?” Tịch Tà nói đến đây vẫn bình tĩnh hòa nhã, “Đây là lỗi của nô tỳ.

Khánh Hi năm thứ nhất, binh mã cần vương của bốn vương vào kinh thành, lúc gia phong làm thân vương, chỉ có môn khách trung thư này biện luận dựa vào lí lẽ để phản đối việc gia phong cho bốn vương.

Ngài ấy là cận thần bên cạnh tiên đế, tuy chức quan nhỏ nhưng lại làm triều đình và dân gian rúng động.

Vốn tưởng rằng Hồng vương có chút kiêng dè với Cao Hậu, không tiện ra tay, thật sự không ngờ ông ta quả quyết lộng quyền, không coi ra gì, quả nhiên là người ngang ngược có dã tâm đương thời.

Nô tỳ đầu óc hạn hẹp, đã nhìn lầm ông ta rồi.”
“Tối hôm qua đã bàn đến khuya với Cảnh Nghi và Lưu Viễn, sư nói sư phải, vãi nói vãi hay, đến cuối cùng vẫn chưa bàn xong việc này phải xử trí thế nào.

Cao Hậu này giữ hay bỏ, mà giữ như thế nào, bỏ như thế nào?” Hoàng đế thở dài, “Giữ Cao Hậu sẽ trở mặt với Hồng vương, không cần làm, chỉ nghĩ thôi cũng đã khá bận tâm về mười vạn binh mã trong tay ông ta, còn chưa nói đến việc thái hậu cũng sẽ làm khó dễ.

Bỏ Cao Hậu thì thể diện của trẫm, thể diện của triều đình để vào đâu, các sứ trưng lương ở đất phiên khác biết được thì nhất định sẽ nhìn trước ngó sau, còn có thể làm được việc gì nữa?”
“Hoàng thượng lo lắng rất đúng.” Tịch Tà gật đầu.
“Khanh nghĩ sao?” Hoàng đế đột nhiên cười, “Khanh có chủ kiến trong lòng, đừng thừa nước đục thả câu.”
“Vâng.” Tịch Tà cũng cười nói, “Nô tỳ đang nghĩ lúc đầu cử Cao Hậu đến Hồng châu, trước sân khấu là để trưng thu lương thực, thật ra còn là cơ sở ngầm của triều đình ở Hồng châu, để Hồng vương làm việc phải e dè.

Nay Cao Hậu đã bị giam lỏng ở Hồng châu, bất kể là trên sân khấu hay dưới sân khấu thì ngài ấy cũng không còn cách nào hát tiếp vở hí này, khí thế của Hồng vương thúc bách, tất nhiên là bỏ.”
“Bỏ?” Vì bất ngờ nên hoàng đế không khỏi ngẩn ra, “Bỏ thế nào?”
Tịch Tà nói: “Thứ nhất, Cao Hậu không thể chết ở Hồng châu được, phải áp giải về bộ Hình luận tội; thứ hai, luận tội cũng nên có chứng cứ phạm tội xác thực; thứ ba, nô tỳ đoán hoàng thượng sẽ giữ bản hạch tội của Hồng vương mà không phát tán, nhắc nhở Hồng vương và các thân vương khác một câu, trước giờ đất phiên bình an vô sự, rốt cuộc là kẻ nào đang gây sóng gió?”
“Việc thứ nhất không khó; việc thứ ba cũng dễ làm.

Nhưng việc thứ hai…” Hoàng đế nói, “hơi bất tiện.

Tên Cao Hậu này rất trong sạch, như khanh mới vừa nói, ngọc trắng không tỳ vết.” Hoàng đế liếc nhìn Tịch Tà, “Trẫm có thể xử hắn tội gì chứ?”
Nụ cười của Tịch Tà ánh lên màu rượu mát lạnh trong chén: “Muốn gán tội cho người khác, sợ gì không có lý do?”
Hoàng đế kinh ngạc cười nói: “Cái gì?”
Ánh mắt Tịch Tà yên tĩnh như mặt nước phẳng lặng: “Nếu Cao Hậu đã thành đồ bỏ đi thì với hắn mà nói, tội gì cũng giống nhau cả.”
Hoàng đế chậm rãi bưng chén rượu lên bên môi, mắt nhìn chăm chăm phiến lá xinh đẹp bừng bừng sức sống bên tường, trong lúc trầm ngâm lẳng lặng gật đầu.
“A!” Ngoài cửa, Như Ý và Tiểu Thuận Tử khẽ hô một tiếng.
Tịch Tà xoay người đẩy cửa sổ ra, cười nói: “Tuyết rơi rồi.”
“Thế à?” Hoàng đế cũng đi đến trước cửa sổ, “Tuyết lớn quá!” Chỉ thấy trong viện đã trắng xóa một mảnh, bông bạc bay loạn, nhào vào trên chấn song, bậc thang đá xanh cũng bị những hạt nhỏ làm ướt, lờ mờ phản xạ ánh đèn tĩnh mịch.

Hoàng đế cười bảo: “Đun rượu ngắm tuyết cũng là chuyện thú.”
Thái giám Thất Bảo được thái hậu tin một bề nhiều năm, dù lão không phải tham lam nhưng ở viện Cư Dưỡng vẫn giấu không ít đồ tốt.

Vò rượu lâu năm này trong vắt thơm nồng, hoàng đế không kiềm được mà uống thêm mấy chén, cuối cùng ngà ngà say, gối ở trên giường ngắm tuyết.
Như Ý lặng lẽ đi vào, nhỏ giọng hỏi: “Vạn tuế gia, bên ngoài đã chuẩn bị liễn xong rồi, vạn tuế gia có muốn về cung Càn Thanh không ạ?”
Hoàng đế nói: “Tịch Tà cầm bình rót cho ta, trộm được nửa đêm nhàn nhã trong kiếp phù du này.

Giờ phải về thôi.”
Như Ý đi lấy áo choàng của hoàng đế, Tịch Tà thì vén mành lên, hoàng đế đưa chén rượu cho Tịch Tà ở trước cửa rồi mới bước ra, chắp tay đứng ở dưới hiên: “Hôm nay trẫm mới biết, người bên cạnh khanh đều thật lòng đối tốt với khanh, trẫm rất hâm mộ khanh.”
“Nô tỳ không dám nhận.”
Hoàng đế nhìn thẳng vào ánh mắt lạnh lùng của Tịch Tà, chịu đựng cơn nhói trong mắt, chậm rãi nói: “Dầu trẫm có cả thiên hạ cũng ít có lúc như ý, nhiều lúc thất ý, nhìn thì việc gì cũng dễ như trở bàn tay, song thật ra những thứ trẫm thực sự để ý, có lẽ mãi mãi cũng không chiếm được.”
Tịch Tà cười nói: “Nô tỳ là một kẻ làm nô tài, đã quen với cuộc sống tạm bợ nịnh bợ ton hót.

Nô tỳ không hiểu được lời của vạn tuế gia đâu.”
“Trẫm cũng từng nghĩ tới ngày tháng vui vẻ hòa thuận, bình tĩnh an nhàn.

Người chung quanh không phải sợ khanh, dụ dỗ khanh, mưu tính khanh, họ biết khóc, biết cười, biết nói lời tri kỷ với khanh.” Khóe miệng hoàng đế hiện lên một nụ cười lạ lùng, “Tịch Tà, Minh Châu thông tuệ hơn người, giỏi đoán ý, thái hậu cũng rất thích, vả lại nàng phóng khoáng, không kiêu ngạo không siểm nịnh, bên cạnh trẫm đang thiếu người như vậy.

Trẫm rất muốn nạp nàng làm phi, chỉ sợ khanh tiếc đấy.”
Hình như trong bóng tối sau trụ hành lang có người hít vào một hơi, tuyết rơi cũng bị khí thế của hoàng đế lãm nhiễu loạn, quấn lấy nhau mà bay lên, đập vào khuôn mặt còn trắng hơn tuyết của Tịch Tà.

Thế giới ở trong buổi đêm mờ tối không ánh sáng đang dần dần nhạt sắc, ánh mắt hoàng đế chợt chói ra vẻ loá mắt.

Tịch Tà khẽ rùng mình ở trong cơn gió nhẹ, đi lên phía trước một bước, tiếng nói trong trẻo bình tĩnh hệt như thường ngày: “Minh Châu không phải nô tỳ, Minh Châu giống như mọi người trong gầm trời này, đều là của hoàng thượng, chỉ cần hoàng thượng muốn thì Minh Châu lập tức sẽ theo hoàng thượng.”
“Tốt!” Hoàng đế vẫy tay với Như Ý.
“Nhưng mà…“ Tịch Tà nói tiếp, “Minh Châu ở viện Cư Dưỡng và Minh Châu bên cạnh hoàng thượng sẽ không còn là một người nữa.

Ở bên người ngồi trên vạn người như hoàng thượng, bất kể là ai đều không thể giành ánh sáng với nhật nguyệt, đợi ánh sáng của Minh Châu tắt dần, hoàng thượng lại thấy hối hận.

Hoàng thượng…” Tịch Tà dần nở nụ cười, “Hoàng thượng thực sự muốn Minh Châu ư?”
“Ha ha, chỉ có khanh thực sự hiểu ý trẫm, cũng chỉ có khanh dám nói một câu thật lòng với trẫm.” Hoàng đế nhìn hắn rồi bật một trận cười to, “Minh Châu, cô tạm thời cứ yên tâm ở đây đi!” Hắn ta lớn tiếng nói rồi lên liễn mà không quay đầu lại.

Một đám đông tản đi theo hoàng đế, viện Cư Dưỡng lại tịch mịch im ắng, Minh Châu lặng lẽ đi ra từ sau trụ hành lang, khẽ gọi: “Lục gia.”
Trong yên tĩnh, Tịch Tà cười với nàng: “Tôi uống quá chén nên nói sai rồi.” Hắn nâng chén sáng long lanh lên trước mắt, cầm thật cẩn thận, “Lục gia của cô cũng có lúc mê rượu mà hỏng việc.” Cổ tay rung lên, ném chén rượu ra chỗ tuyết xa xa.
Minh Châu “ôi” một tiếng, thấp giọng bảo: “Dù môi Lục gia chưa bao giờ chạm vào chén rượu này thì tôi cũng vẫn phải cảm ơn nó, Lục gia không được tùy tiện ném vỡ nó đâu.”
Tịch Tà nhìn Minh Châu cúi đầu cẩn thận tìm kiếm chén rượu trong tuyết, tuyết rơi điên cuồng mà xoay vòng trong gió, quất lên người nàng.

Hoàng đế hai mươi lăm tuổi đang đánh giá lực lượng của Tịch Tà một lần nữa, bản tính quyền mưu của đế vương khiến cho hắn ta trổ hết tài năng từ dưới lớp mặt nạ của con rối.

Có thứ gì đó cuối cùng cũng thoát khỏi khống chế, nhào tới phía mình một cách hỗn loạn.

Lần đầu tiên Tịch Tà cảm thấy có một loại phiền muộn lực bất tòng tâm làm ngực nhâm nhẩm đau..


Bình luận

Truyện đang đọc

Báo lỗi