THANH VÂN ĐÀI

Tạ Dung Dữ hiểu rồi.

Thứ Tưởng Vạn Khiêm nói không phải là tấm thẻ gỗ bình thường, mà là bảng tên được bộ Lễ đặc chế riêng dành cho sĩ tử lên đài năm xưa, mỗi một sĩ tử đều có một tấm thẻ, bên trên khắc họ tên và quê quán.

Tạ Dung Dữ hỏi: “Hiện nó đang ở đâu?”

“Không ở chỗ tôi…” Tưởng Vạn Khiêm đáp, “Tôi đã đưa cho Tôn huyện lệnh rồi, bây giờ… có lẽ là ở chỗ Lý thị.”

Đúng lúc này, Huyền Ưng vệ ở ngoài thư phòng bẩm báo: “Bẩm Ngu hầu, thiếu phu nhân đến ạ.”

Cửa thư phòng bật mở, Thanh Duy bước vào nhà, giao một tấm thẻ gỗ cho Tạ Dung Dữ, “Ngài nhìn xem, có phải ngài tìm thứ này không?”

Tạ Dung Dữ đưa tay nhận lấy, gỗ đàn hương hình vuông, viền chỉ vàng, bề mặt được khắc hình hoa tử kinh mạ vàng, độ khéo léo đạt mức khó có thể sao chép, là thứ được cục Chú Ấn thuộc bộ Lễ đặc chế vào năm Chiêu Hóa thứ mười ba.

Điểm khác biệt duy nhất là thẻ bài trong tay y không khắc tên, là một thẻ bài trống trơn.

Tưởng Vạn Khiêm co rúm mình ngó ra cửa phòng, thấy Kỳ Minh đã dẫn Lý thị lẫn Dư Hạm tới, biết có ngoan cố cũng vô ích, dứt khoát khai báo tất cả, “Tuy rằng thảo dân… không, tuy tội nhân, tội nhân che giấu tội của Sầm đại nhân, nhưng chuyện liên quan đến Tôn đại nhân và Tần sư gia, tội nhân đều nói thật, hai người họ là tri kỷ, sau huyết án núi Trúc Cố, Tôn đại nhân trở nên suy sụp, một mình Tần sư gia cáng đáng công vụ ở nha huyện… Phương Lưu đã chết dưới Tiển Khâm Đài, trong lòng tộin nhân cũng hối hận lắm, nhưng người mất rồi, tội nhân biết làm gì được nữa đây, năm ấy mất hơn một trăm nghìn lượng mua suất lên đài, chỉ có mỗi Tần sư gia khuyên tội nhân chớ làm vậy, nhưng tội nhân đã bị ma quỷ ám ảnh, đặt chân lên con đường không lối về… Vương gia, tội nhân thật sự biết lỗi rồi, dù vương gia có định tội gì đi nữa, tội nhân cũng cam tâm nhận hết, chỉ xin vương gia đừng làm liên lụy đến nhà họ Tưởng…”

Tạ Dung Dữ liếc ông ta, “Ông nói Sầm Tuyết Minh cho ông hai tấm thẻ bài, vậy tấm còn lại đâu?”

Tưởng Vạn Khiêm ngẩn ra, vội đáp: “Tội nhân không dám lừa vương gia, trước khi rời Thượng Khê, tội nhân đã giao hết cả hai tấm cho Tôn đại nhân rồi.”

Tạ Dung Dữ lại đảo ắt nhìn Lý thị, Lý thị rất sợ y, run rẩy đáp: “Ở chỗ dân phụ, chỉ có một tấm này.”

Chương Lộc Chi nghe tới đây thì không nhịn được “chậc” một tiếng, chụp lấy cổ áo sau của Tưởng Vạn Khiêm, “Còn không mau thành thật khai báo? Ngươi đã giấu tấm bảng tên kia ở đâu rồi hả?!”

“Bảng tên không ở chỗ ông ta đâu.” Chưa đợi Tưởng Vạn Khiêm trả lời, Tạ Dung Dữ đã nói, “Ông ta đem theo nó mới là không an toàn.”

Vừa dứt lời, Thanh Duy lập tức hiểu ra.

Đúng thế, nếu Tưởng Vạn Khiêm đem theo thẻ bài chạy trốn, tặc nhân đuổi bắt được ông ta, vừa hay có thể giết người hủy chứng; nhưng ngược lại, nếu thẻ bài không ở trên người ông ta, vậy một tấm thẻ bài không biết đã giấu nơi đâu mãi mãi sẽ là mối họa ngầm, tặc nhân sẽ không dám tự tiện động đến ông ta.

Đến khoảnh khắc cuối cùng, tấm thẻ bài đó, nằm trên người người khác mới là bùa hộ mệnh, còn nằm trên người Tưởng Vạn Khiêm lại biến thành bùa đòi mạng.

Thanh Duy hỏi Trú Vân: “Lúc ông giao bảng tên cho Tôn Nghị Niên, ông ta có nói gì không?”

Tưởng Vạn Khiêm vắt óc nhớ lại, “Ông ấy chỉ nói, ông ấy muốn bảo vệ tính mạng người nhà, từ lâu đã không quan tâm đến sống chết bản thân. Còn lại… Chỉ dặn dò tôi mấy việc chạy trốn, bảo tôi cải trang thành quản gia trong phủ, sẽ để tiểu thiếp làm bình phong cho tôi, chạy trốn từ đường tắt, nếu bị tặc nhân phát hiện,” Nói đến đây, Tưởng Vạn Khiêm do dự nhìn Dư Hạm, “Thì cứ rời đi trước, không cần để ý đến cô tiểu thiếp…”

Dù biết Tôn Nghị Niên đã phụ bạc mình, nhưng lòng Dư Hạm vẫn quặn thắt, “Ông ấy nói vậy thật sao? Ông ấy bảo ông chạy đi, không cần để ý tới ta?”

Tưởng Vạn Khiêm gật đầu, lật đật nói, “Nhưng ông ấy còn bảo, ông ấy còn bảo mình có lỗi với cô, nói cô vốn nên theo gánh gát đi bốn bể, thế mà lại bị ông ấy nhốt ở trang viên với mình bao nhiêu năm…”

“Ông ta còn biết ta ở với ông ấy nhiều năm cơ hả!” Dư Hạm giậm chân, vừa tức tối vừa đau lòng, “Vậy mà ông ấy nói sau này sẽ xem ta như người nhà, sẽ đối xử thật tốt với ta, nhưng tới cuối, lại dùng một hộp vàng mua tính mạng của ta!”

Nàng ta vừa dứt lời, Tạ Dung Dữ như nghĩ đến điều gì đó, đột nhiên nhìn sang Dư Hạm.

Thanh Duy cũng nhận thấy ánh mắt y, lập tức bừng tỉnh, nàng hỏi: “Tiểu phu nhân, ngoài hộp vàng ra, Tôn huyện lệnh còn cho cô thứ gì không?”

“… Chỉ có một hộp vàng thôi, không còn gì nữa.” Dư Hạm đáp.

Tạ Dung Dữ nhìn vào mắt Chương Lộc Chi, Chương Lộc Chi hiểu ý, hai ba bước đi ra khỏi cửa, Dư Hạm vốn bực bội, nhưng thấy thế thì cũng đoán được Chương Lộc Chi muốn lấy tráp vàng của mình, lập tức đuổi theo bằng được, song đã bị Huyền Ưng vệ ở cửa ngăn cản, nàng ta quát lớn, “Các ngươi, đám quan lớn các ngươi, khi không lấy bạc của người ta, đồ tim gan phèo phổi đen tối…”

Thời gian năm năm phó mặc dòng nước cuốn đi, bầu bạn bao năm là vậy, cuối cùng nàng chẳng còn gì ngoài tráp vàng này, nàng không thể bỏ nó được!

Chẳng mấy chốc Chương Lộc Chi đã quay lại, hắn là người nóng tính, không có kiên nhẫn lấy từng thỏi vàng ra mà lật ngược tráp lại, đổ tất cả xuống đất, Dư Hạm vội cựa người ra xông đến nhặt lấy, gom góp từng thỏi đặt vào trong khăn, tựa như muốn gói ghém lại năm tháng đã giao phó sai lầm.

Hộp gỗ trống trơn, thoạt nhìn rất bình thường, Chương Lộc Chi gập tay lại, ném mạnh xuống đất.

*Cach* một tiếng, hộp gỗ nứt gãy, đáy hộp bị trật ra để lộ một ngăn nhỏ, Vệ Quyết tinh mắt, tuốt thanh đao huyền ưng ra khỏi vỏ, thanh đao sắc bén cạy đáy, để lộ một tấm gỗ hoàn hảo không tróc vảy, bên trên khắc hình hoa tử kinh, y hệt tấm của Lý thị.

Dư Hạm nhìn tấm thẻ bài đó, động tác gom vàng đột ngột dừng lại.

Đấy chẳng phải là tấm thẻ mà bọn họ đang nói đến sao? Chẳng phải phu nhân chủ tử đã nói, tấm thẻ đó có thể bảo vệ được tính mạng ư?

Vì sao nó lại ở chỗ nàng?

Trong mơ màng, bên tai nàng bỗng vang vọng câu nói ban nãy của Tưởng Vạn Khiêm, “ông ấy còn bảo mình có lỗi với cô, nói cô vốn nên theo gánh gát đi bốn bể, thế mà lại bị ông ấy nhốt ở trang viên với mình bao nhiêu năm…”

Nàng cụp mắt, chậm rãi buông ra những thỏi vàng đang gom góp, nhưng thỏi vàng chói lóa khiến nàng hoa mắt, chẳng hiểu sao lại như nhìn thấy nụ cười khổ sở trên khuôn mặt của Tôn Nghị Niên khi nói những lời này, tựa những lần ông ấy mơ màng sau khi ho4n ái với nàng.

Đọc sách thánh hiền, làm quan phụ mẫu, tiếc thay chỉ vì một án sai mà phải lầm bước, sau huyết án núi Trúc Cố, ông ấy  đã xây những ngôi mộ áo mũ sau núi, cũng chôn luôn sự sống của mình, từ đấy biến thành cái xác biết đi.

Nhưng cái xác biết đi cũng là người, suy cho cùng vẫn muốn được sưởi ấm, năm năm bầu bạn ít nhiều cũng để lại dấu vết trong lòng ông, chưa hẳn là yêu, nhưng cũng có tình.

Đủ để khiến ông giấu tấm bùa hộ mệnh này vào tráp vàng mà nàng sẽ không vứt bỏ.

Có thể việc ông ấy làm chẳng đáng bao nhiêu, nhưng đó đã là tất cả những gì ông có thể báo đáp.

Vệ Quyết nhặt tấm thẻ bài, dâng lên Tạ Dung Dữ: “Ngu hầu.”

Tạ Dung Dữ nhận lấy, quét mắt nhìn ba người Dư Hạm, “Dẫn bọn họ lui, để bọn họ khai lại lần nữa.”

***

“Năm Gia Ninh thứ hai, việc trùng kiến Tiển Khâm Đài do một viên ngoại lang bộ Lễ đề xuất, lúc ấy đa số triều thần đều phản đối, sau đó Quan gia hỏi ý lão thái phó, dùng một câu ‘để sau hẵng bàn’ để gác lại chuyện này. Đến đầu năm Gia Ninh thứ ba, Chương Hạc Thư dẫn đầu, tổng cộng tám đại quan lần nữa dâng tấu xin tái xây dựng Tiển Khâm Đài, khi đó số người tán thành và phản đối chia làm nửa, hai bên tranh chấp không ngớt, một tháng sau, số người tán thành biến thành sáu phần, thế là Quan gia gật đầu đồng ý, cũng hứa rút kinh nghiệm từ Tiển Khâm Đài sập năm Chiêu Hóa thứ mười ba, điều tra triệt để một lần nữa…”

Màn đêm gần buông mà trong thư phòng vẫn còn người, Vệ Quyết đứng trước bàn, nhắc lại lý do trùng kiến Tiển Khâm Đài:

“Mùa xuân năm nay, khâm sai Đại Lý Tự và Ngự Sử Đài dẫn đoàn đến Lăng Xuyên, Nhạc Châu để truy vấn nghi phạm năm xưa, cũng áp giải tội nhân mang trọng tội hồi kinh, trong đó bao gồm Thôi Hoằng Nghĩa – nhân chứng trong vụ án Hà thị. Còn Hà thị sau khi bị bắt, tội danh đánh tráo gỗ, giam giữ dược thương, nâng giá thuốc đã được chiêu cáo thiên hạ, khiến nhân sĩ phẫn uất, vì để trấn an dân tình, cuối cùng triều đình nhất trí quyết định xây lại Tiển Khâm Đài, thế là đầu xuân năm nay đã điều vệ đội từ các quân nha đến Lăng Xuyên, do thị lang bộ Công là Tiểu Chương đại nhân cùng Trương đại nhân ở Ngự Sử Đài đốc công.”

Nói đến đây, Vệ Quyết dừng lại: “Dĩ nhiên ban đầu Quan gia đồng ý tái xây dựng Tiển Khâm Đài là bị ép buộc, lúc đó Quan gia đang… trong tình cảnh vô cùng khó khăn, chỉ có thể đồng ý xây lại mới có thể đổi lấy quyền phục dụng Huyền Ưng Ti, về sau, cũng chỉ có… Tóm lại, quay về ban đầu, tạm không nhắc đến viên ngoại lang ở bộ Lễ, thì việc xây lại Tiển Khâm Đài là do Chương Hạc Thư cầm đầu đề xuất.”

Tạ Dung Dữ biết Vệ Quyết lược bỏ không nhắc đến chuyện gì.

Về sau, cũng chỉ có lật đổ Hà thị, Triệu Sơ mới có thể cầm quyền, mới có thể điều người của mình vào các nha các bộ, mới thực sự có năng lực điều tra chân tướng Tiển Khâm Đài sập đổ.

Âu cũng là thủ đoạn của đế vương, không quan trọng.

Nhưng hôm nay Tưởng Vạn Khiêm đã nói, người cho ông ta tấm thẻ bài đã từng hứa rằng, mấy năm sau nhất định sẽ để Tiển Khâm Đài được trùng kiến.

Hay nói cách khác, kẻ đã thổi lên mưa gió lần này chắc chắn nằm trong phe ủng hộ xây lại Tiển Khâm Đài.

“Ngu hầu, giờ chúng ta có cần gửi tin đến Quan gia, điều tra kỹ Chương Hạc Thư và phe phái Chương thị không?” Vệ Quyết hỏi.

Tạ Dung Dữ ngả lưng ra ghế, giơ tay xoa ấn đường, “Vẫn chưa đến lúc.”

Chương Lộc Chi thở một hơi thật dài, “Đúng thế, hai tấm thẻ bài đó là Sầm Tuyết Minh cho Tưởng Vạn Khiêm, không thể dùng nó chỉ hướng vào Chương Hạc Thư được, hơn nữa có quá nhiều người đề nghị xây lại Tiển Khâm Đài, chỉ dựa vào một lời khai của Tưởng Vạn Khiêm cũng không thể bắt được người, trái lại còn dễ bứt dây động rừng.”

“Không hẳn.” Tạ Dung Dữ nói, “Có lẽ Chương Hạc Thư không sạch sẽ, nhưng…”

Y dừng lại, “Ta ngờ rằng, kẻ bán suất lên đài ở núi Trúc Cố không phải ông ta, mà là người trong quân.”

Thanh Duy ngạc nhiên: “Sao lại thế? Vì quân đội đã giết sơn tặc núi Trúc Cố?”

Tạ Dung Dữ nhìn nàng, nhẹ nhàng nói: “Còn nhớ Trù Trù phủ Huyện lệnh chết lúc nào không?”

“Ngày thứ hai sau khi Triêu Thiên giả ma xuất hiện ở núi Trúc Cố.”

Tạ Dung Dữ nói: “Còn lời khai của Lý thị lại là, mấy hôm trước khi Trù Trù chết, Tôn Nghị Niên đã bắt đầu thu xếp cho bà ta rời Thượng Khê, điều này chứng tỏ gì?”

“Ý Ngu hầu là trước khi Huyền Ưng Ti đến Thượng Khê, tặc nhân đứng ra buôn bán đã biết hướng đi của Huyền Ưng Ti, cho nên định đến Thượng Khê diệt khẩu?” Vệ Quyết hỏi.

Tạ Dung Dữ nói: “Đầu năm nay triều đình hạ lệnh xây lại Tiển Khâm Đài, các quân nha đã điều vệ đội đến núi Bách Dương, Huyền Ưng Ti cũng mượn danh nghĩa này để tới Lăng Xuyên, sau đó Huyền Ưng Ti dừng chân ở Đông An, chỉ có hơn mười người theo ta đến Thượng Khê.”

“Vệ đội mấy trăm người chỉ thiếu mười người, trừ quân đội theo các ngài đến thì những người khác không thể phát hiện được.” Thanh Duy nói.

Trong khi đó Chương Hạc Thư lại ở Xu Mật Viện, tuy Xu Mật Viện chấp chưởng quân chính, nhưng vẫn chưa có tư cách nắm giữ binh quyền.

Người này biết rõ chiều hướng của Huyền Ưng Ti như thế, ắt hẳn phải nằm trong quân.

Lúc này, Kỳ Minh nói: “Ngu hầu, ngài còn nhớ trong thư Quan gia gửi tới có nói, Sầm Tuyết Minh mất tích kia từng phục vụ trong quân lúc trẻ không? Ông ta là tay sai của vị đại nhân bán danh sách, nói không chừng trong này có liên hệ gì đó.”

Tạ Dung Dữ gật đầu, “Ngươi lập tức đến nha phủ điều tra xem Sầm Tuyết Minh từng làm việc cho ai khi còn ở trong quân, việc này cũng không khó điều tra.”

Kỳ Minh vâng dạ, nhanh chóng rời đi.

Tạ Dung Dữ có cảm giác dường như cả hội đã đến rất gần đáp án, nhưng lại bỏ sót chi tiết nào đó khiến bọn họ cứ vòng vòng bên cạnh lời giải.

Trong thư phòng chỉ còn lại tiếc sột soạt lật giở hồ sơ, Chương Lộc Chi là người thô kệch, đừng nói hồ sơ, ngay cả việc sắp xếp lời khai hắn cũng không làm nổi, thế là khoanh chân ngồi dưới đất, dựa vào gác sách nhắm mắt dưỡng thần một lúc, rồi đột nhiên mở bừng mắt, “Ngu hầu, ngài có cảm thấy chỗ này rất lạ không?”

Tạ Dung Dữ đưa mắt nhìn hắn.

Chương Lộc Chi gãi đầu: “Thuộc hạ là kẻ thô lỗ, cũng không biết nghĩ đúng không nữa, nhưng thuộc hạ cảm thấy, hình như chúng ta đang bị theo dõi.”

Tạ Dung Dữ cất tiếng: “Nói nghe xem nào.”

“Thực ra thuộc hạ đã có cảm giác này từ lâu rồi, bắt đầu từ khi vào núi Trúc Cố đã bị theo dõi để mắt. Ngài xem, chúng ta điều tra được Tôn Nghị Niên thì Tôn Nghị Niên chết, điều tra được Lý bổ đầu thì Lý bổ đầu mất tích, ngay cả Tưởng Vạn Khiêm cũng thế, may nhờ có Triêu Thiên liều chết bảo vệ. Như thể mỗi bước đi của chúng ta đều có kẻ âm thầm đối đầu, nhưng chúng ta ở ngoài sáng, không thể thấy được kẻ địch, nhất là… khi chúng ta vẫn còn ở Thượng Khê, nha huyện Thượng Khê bao gồm Tôn Huyện lệnh và Lý bổ đầu đều là con mồi của chúng ta, nhưng, ngoại trừ nha huyện Thượng Khê, còn có ai đang ngăn cản chúng ta điều tra bọn họ? Có thể đối đầu với Huyền Ưng Ti, Tả Kiêu Vệ và Tuần Kiểm Ti?”

Tạ Dung Dữ nói: “Thực ra ta cũng nghi ngờ Tả Kiêu Vệ và Tuần Kiểm Ti, nhưng chắc chắn không phải Tả Kiêu Vệ, bằng không Ngũ Thông đã không rời đi trước khi xảy ra bạo loạn.”

“Tuần Kiểm Ti cũng không có khả năng.” Vệ Quyết nói, “Năm ngoái khi xảy ra hỏa hoạn ở giáo trường núi Dương Pha, cha con nhà họ Trâu bị tống vào ngục, Tuần Kiểm Ti đã được Quan gia đích thân dọn dẹp, nhất là nhánh phái tới Lăng Xuyên.”

Đầu năm nay, Khúc Bất Duy xin lệnh để Khúc Mậu dẫn nhánh vệ đội này đến Lăng Xuyên, sở dĩ Triệu Sơ đồng ý là để tiện cho Tạ Dung Dữ hành động, bởi dẫu Khúc Mậu có hoang đường đến đâu thì vẫn đáng Tạ Dung Dữ tin cậy.

“Điểm lạ nhất là lần này Huyền Ưng Ti không hành động suôn sẻ à?” Thanh Duy hỏi.

Không suôn sẻ ư? Không, thực ra bọn họ rất suôn sẻ.

Chỉ mới đến Thượng Khê vài hôm đã tìm được ông cháu Cát, biết được bí mật mua bán, sau đó tuy Thượng Khê xảy ra bạo loạn, nhưng bọn họ vẫn cứu được Tưởng Vạn Khiêm, còn suýt giữ được Tôn Nghị Niên. Chẳng qua là cuối cùng, vào khoảnh khắc quan trọng nhất lại bị ngáng chân.

Có vẻ như đối phương cũng không dám hành động thiếu suy nghĩ, tuy điều cả tử sĩ nhưng vẫn rất cẩn thận, chỉ giơ tay ngăn cản vào thời điểm cấp bách.

Hệt như rắn độc và đại bàng, Huyền Ưng Ti là đại bàng, còn đối phương là rắn độc nấp trong bụi cỏ, lè lưỡi trừng mắt theo dõi đại bàng trên cao, vừa cẩn thận đuổi bắt con mồi trong cỏ vừa không dám ló đầu, sợ bị đại bàng trên cao phát hiện.

Mà rắn độc như hình với bóng, đang ẩn trong bóng tối theo dõi sát sao khiến mọi người trong thư phòng ớn lạnh sống lưng.

Thanh Duy không có tâm trạng giúp chỉnh sửa lời khai nữa, cảm thấy thư phòng vốn rộng rãi bỗng trở nên chật hẹp, đúng lúc muốn ra ngoài thì một Huyền Ưng vệ đến báo, “Bẩm Ngu hầu, nhân chứng Dư thị đã khai xong, nói muốn cầu khiến thiếu phu nhân.”

Thanh Duy bèn nói với Tạ Dung Dữ: “Ta đi gặp nàng ấy.”

***

Đêm đã khuya, ánh trăng trong sân tựa tơ ươm, Dư Hạm không trang điểm, mắt nhỏ mày ngài, toát lên vẻ đẹp thanh thuần. Nàng ta cầm một túi vải trong tay, không nhìn Thanh Duy mà nhìn vào bụi lan bên cạnh, “Lúc nãy ta nghe quan gia thẩm vấn mình nói, bao giờ ta điểm chỉ vào bản cung trạng thì vị vương gia kia của cô sẽ thả ta đi, có thật không?”

Nàng ta không phải là nhân chứng quan trọng gì, Tạ Dung Dữ không cần phải giữ nàng ta lại.

Tạ Dung Dữ gật đầu: “Thật.”

“Các người đã lấy thẻ bài mà oan gia cho ta, về sau ta có gặp nguy hiểm không?”

Thanh Duy nói: “Không biết, nhưng thẻ bài đã ở trong tay Huyền Ưng Ti, những kẻ đó động đến cô cũng vô ích.”

“Thế cũng tốt, thẻ bài kia, coi như ta đưa cho các cô. Còn thứ này,” Nàng ta do dự, chợt xoay mặt sang, nhét túi vải nặng trĩu vào tay Thanh Duy, gần như mất kiên nhẫn, “Cầm đi!”

Thanh Duy mở túi vải ra nhìn, bên trong là số vàng mà Tôn Nghị Niên để lại cho nàng ta, “Tiểu phu nhân?”

Dư Hạm đưa mắt nhìn trăng sáng, vén lọn tóc ra sau tai, “Núi Trúc Cố chết quá nhiều người, có người còn chẳng biết gì đã phải hít khói bụi, bị đuốc thiêu cháy, ta dẫu gì cũng là người Thượng Khê…”

Nàng ta không biết phải biểu đạt thế nào, nàng ta chưa bao giờ nói những lời đó, thế là vẫy khăn, “Ây da, tóm lại, oan gia kia của ta là Huyện lệnh chốn nghèo đói, lấy đâu ra lắm tiền thế, nhất định số vàng này chẳng sạch sẽ gì, khéo có khi dùng mạng người đổi lấy rồi. Ta đi theo ông ấy năm năm, năm năm qua ngày nào ông ấy cũng ăn năn hối hận. Con người ta đó, không phải tri ân tất không báo, năm năm trước đoàn hát đã giải tán, ta không còn nhà để về, chính ông ấy đã thu nhận ta, rồi về sau lại lợi dụng ta, để ta mạo hiểm bảo vệ họ Tưởng rời đi, ta nhận, coi như ta nợ ông ấy. Nhưng ông ấy.. cuối cùng lại cho ta thẻ bài kia, các cô nói nó có thể bảo vệ được tính mạng, ta cũng chẳng biết nó bảo vệ tính mạng kiểu gì, chỉ là cảm thấy… chung quy ông ấy vẫn nhớ đến ta dù chỉ chút đỉnh. Nếu đã có nhớ, coi như mấy năm nay ta đã không phó thác sai người. Ta không cần số vàng đó nữa, các cô cầm đi, chia cho họ hàng người nhà của sơn tặc, không thì cho người nghèo ấy, xem như ta thay ông ấy bồi thường, hi vọng ông ấy ở dưới cửu tuyền được yên lòng. Nhưng ông ấy đã phụ bạc ta, trả hết món nợ với ông ấy, từ giờ trở đi, ta và ông ấy coi như đã xong, không còn quan hệ gì sất.”

Lúc trước nàng ta cố chấp giữ vàng bởi chẳng qua cảm thấy mình sống nhầm mấy năm, phải đổi lại thứ gì đó bằng được.

Con người mà, đã bỏ ra tất muốn có hồi báo.

Nên chỉ cần chứng minh dù chỉ có nửa tình ý thôi, thì nàng ta có thể trả lại số vàng không sạch sẽ kia.

Thanh Duy nhìn Dư Hạm, lúc này mới phát hiện mình đã xem thường nàng ấy, hóa ra nàng ấy không chỉ trọng tình, mà con người sở dĩ là người, bởi vì dẫu có hèn mọn đến mức kẹt trong bùn lầy, vẫn có thể kiên cường đưa ra chọn lựa.

Thanh Duy hỏi: “Sau này tiểu phu nhân định đi đâu, về Thượng Khê à?”

“Chưa biết nữa, chắc về lại nghề cũ, ca diễn trong đoàn hát thôi. Chẳng phải ông ấy bảo ta nên đi bốn bể à? Bốn bể thì không cần, Lăng Xuyên rộng lớn đến thế, ta đi tới đi lui ở Lăng Xuyên cũng đủ rồi.” Nói đoạn, Dư Hạm lấy làm đắc chí, “Cô không biết đấy thôi, nếu mà hát hay, được thăng tiến là có thể ăn no uống say rồi, trong đoàn hát cũ của ta có một lão sinh đã bốn mươi năm mươi tuổi, mà người Thượng Khê toàn giành nhau nghe ông ấy hát đấy.”

Rồi nàng ta nhìn Thanh Duy, “Bao giờ Tú nhi quay về?”

Thanh Duy lắc đầu: “Ta không biết.”

Dư Hạm cũng không để ý lắm, “Cô nói với nó, bao giờ về nhớ tìm ta, ta ở Lăng Xuyên chờ nó, đợi nó về… Sau này không làm chủ tớ nữa, ta đã không còn là tiểu phu nhân của ai nữa rồi, nó thông minh, làm tỉ muội với ta đi.”

Thanh Duy gật đầu: “Ta nhớ rồi, Dư cô nương.”

Dư Hạm nghe nàng gọi thế bèn bật cười, “À phải rồi, quan gia lúc nãy có hỏi ta, ta quên bảo, sáng hôm rời Thượng Khê, chính Tần sư gia đã đến đón ông ấy ở trang viên của ta, hình như khuyên ông ấy đến nha môn đầu thú với vương gia đi, không phải bọn họ làm sai chuyện à. Vì thế mà hôm đó dù ta đã chạy nửa đường, cảm thấy ông ấy nghĩ không thông nên mới quay về tìm.”

Nói xong, nàng nói với Thanh Duy, “Được rồi, ta về đây, hai ngày nữa ta sẽ đi, cô không cần tiễn ta đâu. Cô đúng là xúi quẩy, vừa tới Thượng Khê, núi Trúc Cố đã bị điều tra triệt để, bao tội ác ẩn trong bóng đêm đã bị phơi ra ngoài sáng. Nhưng thế cũng hay…” Nàng ta vẫy tay với Thanh Duy, đi theo Huyền Ưng Ti, quay gót về Lạc Hà Viện, “Con người không thể sống trong mộng cả đời được, mơ rồi cũng đến ngày tỉnh. Mai mốt nhớ tới nghe ta hát nha.”



Thanh Duy dõi mắt nhìn Dư Hạm rời đi, đứng trong màn đêm một hồi rồi quay về thư phòng.

Tạ Dung Dữ đang nói chuyện với Vệ Quyết, thấy nàng về thì xoay mặt sang, “Dư thị đi rồi à?”

Thanh Duy “ừ” một tiếng, đặt bọc vải lên bàn, “Nàng ấy trả lại vàng, nói muốn chia tiền cho thân nhân của sơn tặc núi Trúc Cố.”

Tạ Dung Dữ nhìn bọc vải, ngoái đầu gọi Chương Lộc Chi: “Sáng mai ngươi đến nha phủ điều tra hộ tịch của Dư thị, nếu vẫn là nô tịch thì tìm cách đổi thành lương tịch đi.”

Chương Lộc Chi gãi đầu, đáp một tiếng.

Thanh Duy nói: “Dư thị còn bảo, vào sáng ngày nha huyện Thượng Khê xảy ra bạo loạn, Tần sư gia đã đến trang viên thành Tây gặp Tôn Nghị Niên một lần.”

Vệ Quyết nghe thế, đồng tử co lại, “Tần Cảnh Sơn? Ông ta có nói gì không?”

“Ông ta khuyên Tôn Nghị Niên ra đầu thú.”

Thanh Duy vừa dứt lời, Vệ Quyết và Tạ Dung Dữ không khỏi nhìn nhau.

Một Huyền Ưng vệ đi theo Tạ Dung Dữ nhạy bén giải thích: “Không giấu gì thiếu phu nhân, vừa nãy Ngu hầu và Vệ Chưởng sứ cũng vừa hay phát hiện ra điểm bất thường của Tần sư gia.”

Thanh Duy hỏi: “Là gì?”

Thanh Duy đẩy một bản hồ sơ đến, ngón tay thon dài gõ lên trên, “Nàng nhìn câu này đi.”

Đó là lời khai của Tưởng Vạn Khiêm, là câu nói dối của ông ta, quan hệ giữa ông ta và Tần sư gia không đến mức tốt đẹp như vậy, năm đó chính ông ta ép Tần Cảnh Sơn trả ơn, dẫn mình lên núi Trúc Cố mua danh sách lên Tiển Khâm Đài.

Vệ Quyết nói: “Nếu quan hệ giữa Tần sư gia và Tưởng Vạn Khiêm đã không tốt, như thế vào sáng hôm nha huyện xảy ra bạo loạn, ông ta dẫn binh đến nha huyện vì mục đích gì? Ban đầu chúng ta cho rằng ông ta có ý ngăn cản Huyền Ưng Ti, không để Huyền Ưng Ti đuổi theo Tưởng Vạn Khiêm chạy trốn, nhưng giờ nhìn lại, ông ta không có đủ động cơ để làm vậy. Tưởng Vạn Khiêm đã giao dịch với Tôn Nghị Niên, nhưng Tần Cảnh Sơn không tham gia vào giao dịch đó. Dĩ nhiên ông ta cũng có thể vì giúp bạn mình hoàn thành giao dịch mà liều mạng lần cuối, nhưng suy đoán này quá khiên cưỡng, Tần Cảnh Sơn liều mình đã đành, tại sao phải dẫn theo nhiều nha sai đến thế? Ông ta không phải người giống như vậy.”

“Nên bọn ta có suy đoán khác.” Tạ Dung Dữ nói, “Tần Cảnh Sơn, có thể không phải đến ngăn cản Huyền Ưng Ti, mà trái lại, thực ra đến để đầu thú?”

“Và lời của Dư Hạm đã xác nhận điều này?” Thanh Duy nói.

Nàng chau mày, “Nhưng thế không khớp, nếu Tần Cảnh Sơn tới đầu thú thì không thể có chuyện xảy ra bạo loạn được. Đánh nhau với Tuần Kiểm Ti rồi cả Tả Kiêu Vệ, cuối cùng phải bỏ mình, vậy có lợi gì cho ông ta?”

Chương Lộc Chi nói: “Thuộc hạ cũng nghĩ thế, hôm đó mọi người truy đuổi Tưởng Vạn Khiêm, Ngu hầu bảo thuộc hạ ở lại nha huyện, chính mắt thuộc hạ nhìn thấy Tần Cảnh Sơn dẫn nha sai và đội ngũ của Tuần Kiểm Ti nảy sinh tranh chấp. Nói ông ta đến đầu thú thì lại không hợp lý.”

Tạ Dung Dữ nhắm mắt.

Y có trực giác ngày hôm đó Tần Cảnh Sơn đến là để đầu thú, luồng suy nghĩ này cứ quanh quẩn trong đầu y.

Nhưng Tiểu Dã nói cũng đúng, nếu Tần Cảnh Sơn đến đầu thú, vì sao ông ta phải xảy ra tranh chấp với Tuần Kiểm Ti và Tả Kiêu Vệ, tháo binh cung khai không phải tốt hơn à?

Hay là, ông ta biết trong nha huyện có người sẽ làm hại mình?

Ai sẽ hại ông ta đây?

Tả Kiêu Vệ? Không thể nào.

Tuần Kiểm Ti? Lúc nãy đã nói rồi, không thể là Tuần Kiểm Ti được.

Hoặc giả Tuần Kiểm Ti vô tội, nhưng người mà bọn họ nghe lệnh lại không sạch sẽ? Song Hiệu úy của vệ đội này là Khúc Mậu, e rằng đến mặt của thuộc hạ tròn méo ra sao Khúc Mậu còn chẳng nhớ, có thể làm được một chuyện là tốt lắm rồi. Hắn vừa đến Thượng Khê, có quá nửa công chuyện đều do hộ vệ Khưu Minh của hắn hỗ trợ, ngay đến giải quyết hậu họa ở Thượng Khê cũng là Khưu…

Vừa nghĩ đến đây, Tạ Dung Dữ đột ngột mở bừng mắt.

Đúng rồi, Khưu Minh?!

“Chương Lộc Chi, sáng hôm Thượng Khê xảy ra bạo loạn, là ai nói với chúng ta không thấy tung tích Lý bổ đầu?” Không phải Tạ Dung Dữ không biết câu trả lời, chỉ là y muốn xác nhận lần nữa.

“Bẩm Ngu hầu, là Khưu hộ vệ bên cạnh Khúc Hiệu úy.”

Vệ Quyết nói, “Ngu hầu, mấy hôm trước khi ngài tìm Khúc Hiệu úy hỏi thăm tung tích của Lý bổ đầu, cũng là Khưu hộ vệ nói với chúng ta, Tuần Kiểm Ti không hề phát hiện Lý bổ đầu.”

Nhưng Lý bổ đầu chỉ là người, sao có thể trốn thoát khỏi sự theo dõi của ba quân Huyền Ưng Ti, Tuần Kiểm Ti và Tả Kiêu Vệ?

Trừ phi… có kẻ cố tình che giấu tung tích của hắn ta.

Đúng lúc này, ngoài thư phòng vọng đến tiếng gõ cửa, là Kỳ Minh quay về.

Kỳ Minh dâng lên một tập sổ sách, “Bẩm Ngu hầu, đã điều tra ra rồi, ngày trước Sầm Tuyết Minh từng phục vụ ở Mông Sơn Quân, Tây Bắc Đồng Lưu Quân, cuối cùng vì bị thương nên thoái chức ở Hổ Khiếu Doanh trong Chinh Tây Quân, tới Lăng Xuyên.”

Đồng Lưu Quân, Hổ Khiếu Doanh đều thuộc đại quân Chinh Tây.

Mà chủ soái của đại quân chinh phạt này chính là Quân hậu Khúc Bất Duy.

Tạ Dung Dữ nhắm mắt, chợt bên tai vang vọng lời oán trách của Khúc Mậu khi mới đến Thượng Khê:

“Chẳng biết cha ta nghĩ gì nữa, khăng khăng kêu ta tới Lăng Xuyên, ta chỉ là thằng phế vật, lẽ nào ông ấy còn trông cậy phế vật ta đây chết đi sống lại?”

“Mọi khi hay có Vưu Thiệu đi theo ta, dù gì, Tuần Kiểm Ti còn có sử lương, nhưng ông già ta không yên tâm ta, sai Khưu Minh để mắt đến ta, nhưng thế cũng hay, mấy chuyện vô tích sự để Khưu Minh làm đi, ta chỉ việc tìm một kịch viện nghe hát là được.”

Nghĩ đến đây, Tạ Dung Dữ đứng bật dậy, trải một tờ giấy trắng lên bàn, “Tiểu Dã, nàng còn nhớ lời cuối cùng Tôn Nghị Niên để lại là gì không? Thuật lại nguyên câu cho ta.”

Chính nàng đến gần lắng nghe câu nói cuối cùng của Tôn Nghị Niên.

Thanh Duy gật đầu, “Ông ta nói, ‘Các ngươi đừng đi, đi…’ sau đó ta hỏi lại, ông ta chỉ nói, không được… đi.”

Tạ Dung Dữ viết năm chữ đầu ra giấy, “Các ngươi đừng đi, đi”.

Y nhìn chăm chú dòng chữ này, ánh mắt trầm như nước, bỗng gác bút xuống cái *cạch*, “Lúc trước chúng ta cứ tưởng Tôn Nghị Niên khuyên chúng ta không nên đến đâu đó, thực ra không phải, ông ta đã cho chúng ta câu trả lời rồi.”

“ ‘Chớ có đi’ tức là đừng đi về. Vậy vì sao lại không nên quay về?”

Nói đoạn, Tạ Dung Dữ đổi sang bút son, gạch bỏ chữ “đi”, đổi thành chữ khác, là một chữ “Khúc” đỏ thẫm.

“Vì trong thành có người của Khúc Hầu.”

Tạ Dung Dữ ngước mắt nhìn mọi người, “Mà người đã ra lệnh Sầm Tuyết Minh buôn bán danh sách lên đài, phái tướng quân tiêu diệt sơn tặc núi Trúc Cố, phái người theo dõi động tĩnh của Huyền Ưng Ti, chính là Quân hậu Khúc Bất Duy.”

“Chúng ta suy đoán không sai, Tả Kiêu Vệ sạch sẽ, Tuần Kiểm Ti cũng sạch, Khúc Bất Duy không có cách nào cài người vào hai nha môn này, nhưng ông ta biết Khúc Mậu làm việc không ra gì, nên mới cố tình lợi dụng điều đó, lấy danh tranh thủ cơ hội cho Khúc Mậu để điều cậu ta đến Thượng Khê, lại lấy cớ lo Khúc Mậu không làm nên chuyện, danh ngôn chính thuận phái tùy tùng đắc lực của mình theo Khúc Mậu đến Thượng Khê, âm thầm tiếp quản Tuần Kiểm Ti, để Tuần Kiểm Ti làm việc cho mình. Khỏi phải nói Lý bổ đầu, hắn đã chết từ lúc Khưu Minh cho chúng ta biết hắn biến mất rồi. Còn Tần sư gia, có lẽ vào buổi sáng ngày cuối cùng, thông qua Tôn Nghị Niên, biết được người thực sự bán suất lên đài chính là Khúc Bất Duy, rồi vì Khúc Mậu là con trai của Khúc Bất Duy, ông ta cho rằng toàn bộ Tuần Kiểm Ti đều là người của Khúc Hầu, nên mới dẫn binh đến nha huyện quyết liều mạng. Còn Khưu Minh đã lợi dụng sự hiểu lầm đó ông ta, vào lúc ông ta đến nha môn, tiếp cận bất kỳ ai có thể bảo vệ mình, đã ra tay giết ông ta trong hỗn loạn.”

Bình luận

Truyện đang đọc

Báo lỗi