TRĂNG LẠNH NHƯ SƯƠNG

Sau một đợt tuyết rơi, từ đài xanh, những bông hoa mai từ từ mở ra hai, ba cánh. Chỉ cần đi qua những dãy hành lang gấp khúc, một thứ hương thoảng thoảng nhẹ nhàng mà thấm hơi lạnh sẽ tràn vào khứu giác.

Cô đại nương bưng trên tay một chiếc mâm gỗ sơn nhỏ, ở giữa là chiếc bát vẽ hoa văn đựng đầy nước thuốc đen sánh,  một làn khói nghi ngút tỏa trên miệng bát. Ly nhi thấy bà bưng thuốc lại vội giúp bà vén rèm lên.

Đại nương họ Cô này vốn là con gái của một lương y ở Lỗ Châu, về sau được tuyển vào cung làm cung nữ. Khi hoàng đế phân phủ cho các hoàng tử, bà được sai đến hầu hạ Duệ Thân Vương, bởi vì có biết chút y học nên được Thân Vương cho làm người quản lý dược thảo trong kho thuốc. Tính tính bà nhã nhặn hiền hòa lại cẩn thận, ấn lệ đến khoảng hai mươi lăm tuổi sẽ được tự do trở về nhà. Thế nhưng ai ngờ, đến thời hạn trở về năm ấy, Lỗ Châu trải qua một trận đại dịch khủng khiếp đã lấy đi tính mạng của toàn bộ thân quyến trong gia đình bà, khiến bà chỉ còn trơ trọi một mình không nơi nương tựa, đành cầu xin Vương phủ cho mình ở lại. Tính cho đến bây giờ cũng đã hơn hai mươi năm, tuổi bà thuộc hàng lớn nhất trong phủ, nên mọi người đều gọi bà một tiếng “Cô đại nương”.

Ly nhi một mặt vừa vén rèm lên, một mặt nói nho nhỏ với bà:

” Ngày hôm nay lại vẫn không chịu ăn cơm, ta xem bát thuốc này đại nương làm cũng uổng công.”

Cô đại nương bước vào trong gian phòng, quả nhiên thấy Như Sương vẫn ngồi kia không nhúc nhích, mí mắt cụp xuống, lặng yên như một bức tượng. Cô đại nương biết nàng vẫn thường như thế. Hôm nay đã ngồi hai canh giờ rồi, ánh mắt thất thần nhìn vào khoảng không vô định, không một chút sinh khí, hai con người đờ đẫn mờ mịt như phủ làn sương, cũng không biết nàng đang nghĩ gì. Cô đại nương đặt chiếc mâm rồi bưng bát thuốc lên, nói:

“Cô nương uống thuốc đi, thuốc này phải uống nhân lúc còn nóng mới không bị đắng.”

Như Sương tựa hồ như không nghe không thấy, cũng chẳng buồn ngước mắt nhìn. Qua hai ngày Cô đại nương đã biết tính nàng, cũng không trách móc gì, thở dài, nói:

” Cô nương, trên đời có câu “giữ được rừng xanh lo gì  không có củi đốt”, dù cho có việc gì to lớn xảy ra, còn sống thì tức còn hy vọng.”

Như Sương nghe mà một chút cũng không động đậy, ngay cả lông mi cũng không hề rung.

Từng cho rằng bản thân hẳn là phải chết không còn nghi ngờ, ai dè một chân đã bước vào quỷ môn quan lại hồi sinh nhân thế. Cần cổ nàng vẫn còn hằn sâu vết bầm tím, đến nay chưa hề mờ đi, làm cho yết hầu của nàng lúc nào cũng có cảm giác bị thiêu đốt trong lửa nóng, như là đã bị vỡ mất rồi. Nếu không phải là vết thương lúc nào cũng phát tác đau đớn, nàng hẳn nghĩ bản thân đã thành một con ma treo cổ, ngẫu nhiên vừa tái sinh trở lại dương gian. Nàng vẫn không thể nào hiểu nổi, vì sao cuối cùng hắn lại thay đổi chủ ý, giữ lại cho nàng một mạng này.

Sau khi tỉnh dậy,  nàng đã thấy ở nơi này, nghe nói là Hạ công công đưa nàng đến đây dưỡng bệnh. Tại Ấp Hoa Đài xa xôi này, vốn từ trước đến nay không có người ở, tất cả các lầu gác đều bị khóa. Nơi nàng ở là hậu viên Tây Sương, nguyên trước cũng là một phòng có giá trị sử dụng, tuy bày biện đồ đạc đơn sơ nhưng dù sao cũng có giường ấm, lò sưởi, so với chỗ ở ban đầu đương nhiên là cách một trời một vực.

Nàng vừa chớm lo không biết tương lai mình rồi sẽ thế nào, lại chợt thấy buồn cười, nàng còn có tương lai sao? Đến chết cũng không được chết cho an ổn, không biết bọn họ còn muốn làm gì nàng nữa đây.

Cô đại nương thấy nàng vẫn im như khúc gỗ, chỉ đành đặt thuốc qua một bên, tựa như nhàn nhã bàn chuyện phiếm, đi đến bên nàng ngồi xuống. Ly nhi biết Cô đại nương đã từng ngồi khuyên nhủ nàng cả hơn nửa canh giờ, nhưng mỗi lần Như Sương đều như không hay biết. Mới đầu Ly nhi còn đứng bên hỗ trợ khuyên giải, song sau hai ngày trăm kế đều bất khả thi, cũng chán nản từ bỏ. Nàng chỉ ngồi bên ngoài khâu vá, để mặc Cô đại nương trong phòng ngồi khuyên. Quả nhiên nửa canh giờ sau đi vào, thấy Cô đại nương đã miệng đắng lưỡi khô mà Như Sương thì vẫn một mực ngồi kia bất động.

Cô đại nương nhìn thấy Ly nhi tiến vào, chỉ bất lực lắc lắc đầu với nàng, đưa tay sờ chén thuốc đã lạnh như băng, nói

” Để ta đi sắc lại thuốc một lần nữa cho cô nương vậy.”

Bà ra khỏi Ấp Hoa Đài, trở về phòng thuốc, vừa vặn thấy nội quan do Hạ Tiến Hầu sai tới tìm. Bà vội vã đi gặp Hạ Tiến Hầu, rồi đem tình hình của Như Sương một mực kể lại, thấy Hạ Tiến Hầu có vẻ đăm chiêu bèn nói:

” Hạ công công, mong ngài hãy mau mau đưa ra cái chủ trương, không thì e cô nương kia không xong mất thôi.”

Hạ Tiến Hầu suy nghĩ, chỉ đáp:

” Bà cứ về trước, chuyện này ta đã có chủ ý cả rồi.”

Sau khi Cô đại nương đi rồi, Hạ Tiến Hầu trở lại Khuê Bích đường, nơi vốn là thư phòng của Duệ Thân Vương, ngày thường vương gia nghỉ ngơi cũng ở chỗ này. Thấy lão tiến vào, gã sai vặt bước đến thì thầm:

” Vương gia vừa thắng Mạnh tiên sinh ván cờ, chính là đang cao hứng.”

Mạnh tiên sinh trong lời của gã sai vặt chính là khách quý của Duệ Thân Vương tên gọi Mạnh Hành Chi. Hạ Tiến Hầu nghe gã sai vặt nói thế, ý nghĩ trong đầu vừa chuyển, tự tay tiếp nhận khay trà, tiến vào noãn các ở mé đông nội đường. Quả nhiên nội quan đang thu thập bộ cờ. Duệ Thân Vương tự tay tiếp trà, thấy là Hạ Tiến Hầu, thuận miệng hỏi:

“Ngươi vừa đi đâu về đấy?”

Hạ Tiến Hầu khom lưng nói:

“Người ở Ấp Hoa Đài vừa báo rằng, Mộ cô nương đã mấy ngày nay một giọt nước cũng chưa uống, chỉ e tình hình không tốt.”

Duệ Thân Vương khẽ cau mày, tựa như là bị trà làm bỏng, tùy tay buông chén xuống:

“Cái thứ nhà ngươi, thật sự là càng ngày càng có mắt sắc.”

Hạ Tiến Hầu sợ tới mức vội quỳ rạp xuống, không ngớt miệng nói ” Nô tì đáng chết”.

Mạnh Hành Chi thấy một màn như vậy, chỉ khẽ mỉm cười:

” Này lão Hầu nhi, động một tí là cứ đáng chết đáng sống, chả trách Vương gia ngươi hắn phiền như vậy.”

Duệ Thân Vương hắc hắc cười ra tiếng, nói:

“Chúng ta làm một ván nữa.”

Duệ Thân Vương như thường lệ quân đen đi trước, đầu cuộc thì thực lực cả hai vẫn còn ngang ngửa, thế nhưng chỉ đi được hơn mười nước, trên bàn cờ hai quân đen trắng đã đấu chọi gay gắt.

Duệ Thân Vương tay cầm chặt quân cờ mà trầm ngâm mãi vẫn không đi nước nào. Mạnh Hành Chi nói:

“Vương gia rõ ràng đã có kỳ mưu ở trong ngực, cớ sao còn do dự? Chẳng lẽ vương gia không sợ vuột mất thời cơ, cứ để cho củi kiếm ba năm đốt trong một giờ như thế hay sao?”

Duệ Thân Vương đáp:

“Đã bao nhiêu ngày qua, trong lòng ta đăm chiêu suy nghĩ, tiên sinh hẳn cũng rõ. Chính là một ván này, chưa nhất thiết phải đánh vội. Nếu đả thảo kinh xà, chỉ e sẽ rước họa vào thân.”

Mạnh Hành Chi nghe mà sắc mặt cũng không động:

“Vương gia đây quả nhiên mà nói đúng là con người thận trọng. Lão hủ này cũng chỉ nói xằng bậy, nhưng xin Vương gia chớ ngại lấy tâm mình mà độ tâm người.”

Giữa Các tĩnh lặng không một tiếng động, trong bóng tối, hoa bách hợp lặng lẽ tỏa hương thơm ngát, nhẹ đưa một phần mỏng manh vào sâu trong lò sưởi. Thời gian trôi qua thật lâu sau, Duệ Thân Vương đột nhiên cười rộ:

“ Tiên sinh nói chí phải”.

Rồi tiện tay phá loạn thế cờ, nói với Hạ Tiên Hầu:

“Đi thôi.”

Hạ Tiến Hầu ngơ ngác hỏi:

“Vương gia muốn đi đâu?”

Duệ Thân Vương chỉ cười lạnh, đưa chân đạp cho lão một phát. Hạ Tến Hầu đau đến nhe răng trợn mắt, không dám giả bộ hồ đồ nữa, chỉ đành sửa soạn kiệu ấm đưa Vương gia đến Ấp Hoa Đài.

Vừa bước vào trong cửa chính Ấp Hoa đài, hương thơm thanh đạm tươi mát của hoa mai đã bay đến khiến Duệ Thân Vương không khỏi ngừng chân, nhìn vào bên trong đình nơi những đóa mai nở sớm:

“ Ở đây hoa mai đã nở rồi.”

Hạ Tiến Hầu vừa mới trúng một cú nơi chân đau điếng, không dám trả lời tầm bậy, chỉ thưa “Vâng”. Chợt thấy trên má ướt lạnh, thì ra tuyết lại bắt đầu rơi. Lão không dám lại dài dòng, vội sai người mở ô, giúp Vương gia che gió tuyết.

Chỉ trong chốc lát tuyết đã rơi nặng hạt, bay xuống từng hồi từng hồi không ngớt.

Ly nhi khi nghe Vương gia đến, đã sớm đứng nơi cửa chờ đón. Hạ Tiến Hầu hai ngày nay thường xuyên đến Ấp Hoa Đài, thành thục dẫn Vương gia đi đằng sau. Bên ngoài tuyết trắng lóa mắt, Duệ Thân Vương vừa bước vào phòng, chỉ thấy hai mắt tối sầm, mãi một lúc sau mới thấy đồ đạc bày biện trong phòng.

Hạ Tiến Hầu khẽ thưa:

“Mộ cô nương ở bên trong.”

Rồi vội đi lên trước vén mành lên.

Hướng nam của căn phòng này đều là cửa sổ lớn được dán giấy hồ trong suốt. Ánh nắng xuyên thấu đi vào trong, làm cả căn phòng còn bừng sáng hơn cả gian ngoài. Trong phòng im ắng tịch mịch, lửa hồng cháy trong lò ngẫu nhiên kêu “tách” một tiếng, ngay cả âm thanh từng hạt tuyết rơi bên ngoài cũng nghe thấy được.

Duệ Thân Vương vừa nhìn thấy khuôn mặt trông nghiêng của nàng, cảm giác dường như có vài phần quen thuộc, nhưng lại rất mơ hồ, tựa như trong trí nhớ cũng chưa từng xuất hiện. Kỳ thực, ngoại hình của nàng cũng không phải quá giống Mộ phi. Vừa mới động ý nghĩ, bản thân trong lòng đã thấy thảng thốt hoảng sợ, mọi suy nghĩ trong một khắc nhất thời ngưng trệ, tựa như không còn nghĩ được điều gì nữa.

Hạ Tiến Hầu thấy Như Sương vẫn không nhúc nhích ngồi kia, đành ho khan một tiếng:

“Mộ cô nương, Vương gia tới thăm cô.”

Mí mắt Như Sương vẫn buông xuống, dường như chưa từng nghe thấy tiếng gì.

Hạ Tiến Hầu không biết làm thế nào, Duệ Thân Vương thì chẳng tỏ vẻ gì, chậm rãi bước lên phía trước, thanh âm phát ra ung dung bình thản như không:

“ Mộ cô nương, hôm nay Hình bộ nhận được báo cáo, ấu đệ của cô là Mộ Duẫn vì mắc bệnh thương hàn mà đã chết trên đương đi lưu đày. Hiện tại Mộ gia huyết mạch đã đoạn, chỉ còn lại mình cô một ngươi còn sống trên đời này.”

Lời chàng nói từng chữ từng chữ rót vào tai, như muôn vàn con côn trùng, ong ong vang lên đinh tai nhức óc. Lòng nàng hoảng hốt đến mức không còn nghe rõ ràng... Mộ Duẫn... Duẫn nhi của nàng... Ngay từ khi còn nhỏ đã lớn lên trong quân doanh, theo chân cha anh rong ruổi khắp chiến trường, sống nơi vùng núi Định Lan hàng năm chịu cảnh đói rét, nàng chưa từng nghe cậu hắt xì đến một cái. Thế nhưng hiện thời... hiện thời vì mắc bệnh thương hàn... đã chết?

Duệ Thân Vương khóe miệng khẽ nhếch lên, cặp lông mày càng như dựng đứng:

“Nhổ cỏ phải nhổ tận gốc, nòi giống Mộ gia dĩ nhiên là không thể duy trì. Áp giải cậu ta là một tay tâm phúc của Dự Thân Vương. Mà thất đệ ta, tâm tư kín đáo, làm việc chắc chắn, hắn sẽ không bao giờ khiến cho hoàng huynh ta phải lo lắng nửa phần. Mộ cô nương, cô hẳn đã minh bạch rồi chứ?”

Như Sương rốt cuộc ngẩng lên nhìn chàng, con ngươi đen sáng trong vắt mà phẳng lặng, ánh nhìn lạnh lẽo thấu tâm can làm cho người đối diện không khỏi rùng mình.

Duệ Thân Vương chẳng nói chẳng rằng rút từ trong tay áo một thanh đoản kiếm ánh tinh quang, ném phía dưới chân Như Sương.

Đoản kiếm dài khoảng một thước hai tấc, bạch quang sáng loáng tỏa ra, đập vào mắt khiến người ta thấy ớn lạnh, hiển nhiên là một thứ vũ khí lợi hại hơn thường.

Con ngươi đen của Như Sương phản xạ ánh hàn quang, như bức tượng thình lình mở trừng con ngươi, có một chút sự tức giận không hiểu vì sao lóe lên trong đáy mắt. Nàng hít thở một cách hỗn loạn, đôi đồng tử kịch liệt co rút, nhìn chằm chằm nơi phần chuôi đoản kiếm.

Hắn là ai? Làm sao mà hắn biết được? Hắn rốt cuộc là người như thế nào?

Hạ Tiến Hầu đến thở cũng không dám, chỉ trơ mắt nhìn Duệ Thân Vương. Khóe miệng của chàng lại hàm chứa một chút ý cười mỉa mai nhàn nhạt, dường như đã nhìn thấu hết thảy.

Như Sương chậm chạp vươn tay nắm chặt đoản kiếm, chuôi kiếm lạnh như băng áp chặt vào lòng bàn tay nóng bỏng của nàng, làm nảy sinh ra một cảm xúc khác thường.

Cây đoản kiếm này, vì cớ gì lại ở trong tay hắn?

Nàng nâng mắt lên như muốn nhìn cho kỹ kẻ đối diện, hận thù bao lâu bị đè nén giống như một ngọn lửa bừng bừng bốc lên, bùng nổ! Cha đã chết, mẹ đã chết, anh cả đã chết, vú nuôi đã chết, nha hoàn đã chết, ngay cả Duẫn nhi giờ cũng đã chết! Nàng còn sống thì có ý nghĩa gì? Cả đời này, nàng đã sớm không thể đợi được, nàng sớm đã nên chết đi. Giết hắn! Giết hắn! Cơn giận dữ cuồng loạn làm cho nàng bật dậy lao lên, hướng đoản kiếm thẳng đến chàng mà đâm.

Duệ Thân Vương chỉ hơi nghiêng mình  đi, nàng không thể thu thế được, cả ngưới cứ theo quán tính lao về trước. Nàng vốn mấy ngày đã không ăn không uống, như dầu hết đèn tắt, nhất thời ngã quỵ.

“Đinh” một tiếng đoản kiếm đã rơi ở trên đất.

Duệ Thân Vương cười lạnh:

“Mộ đại tướng quân sinh thời oai phong lẫm liệt, không ngờ lại sinh được một đứa con gái ngu ngốc như nhà ngươi.”

Như Sương chỉ cảm thấy đôi tai ù đi, phải qua một hồi lâu, nàng mới hơi hơi cử động cánh tay. Vừa nãy vì sử dụng lực đạo quá mạnh, phía trên cổ tay chà xát với mặt đất nên tróc một mảng da lớn, vết thương đau như bị đốt. Thế nhưng sự đau đớn ấy lại làm cho nàng cảm thấy dễ chịu hơn nhiều, bởi, nó nhắc cho nàng nhớ rõ rằng bản thân còn có một mối huyết hải thâm cừu chưa trả. Nàng muốn báo thù, nàng phải báo thù!

Một ý niệm ấy, như máu nóng quay cuồng trong lồng ngực, như sóng trào mãnh liệt đổ vào bờ, ngọn sóng sau lại cao hơn ngọn trước, phong ba bão táp nổi lên khiến nàng không có cách nào khống chế.

Nàng là Mộ gia nữ nhi, nàng mang trong mình dòng máu họ Mộ cương mãnh hung liệt, nàng sẽ không chịu nhu nhược chờ chết, nàng phải báo thù!

Như Sương thở ra từng hơi thở phì phò, cả người co rúm lại. Duệ Thân Vương ra hiệu, Hạ Tiến Hầu vội vàng mở nắp một chiếc lọ nhỏ, lấy ra một viên thuốc, nhét vào miệng nàng. Nàng không hề phản kháng, cũng không nhổ thuốc ra, để mặc cho nó dần dần tan nơi lưỡi. Trong lòng chấn động cũng dần bình tĩnh trở lại, trong các kinh mạch, máu cũng chậm rãi lưu thông.

Nàng cố gắng ngẩng đầu lên, sức lực nhất thời vẫn còn suy yếu khiến nàng muốn nói điều gì mà không cất lên lời. Chỉ có đáy mắt cơ hồ có một ánh lóe lên chớp nhoáng.

Nàng hẳn nên dùng máu kẻ thù để tẩy đi máu tươi mà Mộ gia đã đổ xuống, dùng cừu hận làm vũ khí mà trả thù tên hung thủ nàng chưa từng gặp mặt ấy!

Duệ Thân Vương quay lại trước tràng kỷ thong thả ngồi xuống, chàng cách nàng chỉ trong gang tấc, thế nhưng âm thanh vọng lại xa xôi tựa như từ chân trời bay tới:

“Kẻ cô hận nhất, kẻ đã từng chỉ dùng một cái chiếu thư mà đoạt đi vinh hoa trăm đời của Mộ gia, đoạt đi tính mạng của toàn bộ gia quyến của cô, đoạt đi hết thảy những điều tốt đẹp từ tay cô, hắn lại vẫn ngày ngày chễm chệ ngồi trên Kim Loan điện, cô chằng lẽ lại không muốn báo thù ư?”

Miệng nàng bất giác khẽ run, ánh mắt không hề chớp, cứ nhìn chằm chằm vào kẻ đang ngồi trước mắt. Nguyên là ở trong phủ của mình, Duệ Thân Vương chỉ vận trang phục thường ngày, áo gấm thêu chữ phúc, mặt trong như quan ngọc, nhìn qua cũng chỉ như một công tử nhà giàu có tầm thường, chỉ có thắt lưng tinh tế dệt bằng gấm vàng đeo một khối ngọc trắng khiến cho thân phận vương giả quý tộc của chàng không thể lẫn vào đâu được. Khẽ nhấc cánh tay, từ trong ống tay áo tỏa ra một làn hương, thứ hương ngọt thuần pha trộn vị đắng tinh tế, ngày xưa...

Ngày xưa, gian trên trong nhà nàng vẫn thường đốt loại hương thơm mát thượng hạng ấy, ánh mắt nàng lại thêm ảm đạm.

Mà chàng, thì lại tủm tỉm ý cười, dường như còn đang mải quan sát một nhành mai trắng đang lặng lẽ đưa tinh hoa của hương hàn băng tuyết, còn đương ngập ngừng muốn đoán ai đã ngắt được một cảnh xuân sắc, về cắm trong chiếc bình này.

Nàng rốt cục mở miệng, thanh âm phát ra khàn khàn:

“Ngài muốn như thế nào?”

Duệ Thân Vương dựa lưng vào kỷ, thần sắc thản nhiên:

“Mộ cô nương, cái quan trọng là cô muốn sẽ thế nào?”

Mỗi lần hít thở đều thật khó khăn đau đớn, nàng bấm móng tay thật sâu vào da thịt, từng chữ từng chữ phun ra tưởng như đều mang theo lòng hận thù sâu sắc:

“Giết hắn!”

Duệ Thân Vương cười mà như không cười, rút trong bình một cành hoa mai:

“Mộ cô nương, nên nhớ đó là thiên tử, kẻ đứng trên vạn người, cô nếu muốn tạo phản, e rằng nói dễ mà làm khó.”

Tâm trí nàng dần dần minh mẫn, trong mắt cũng đã có thần thái, tựa như ánh lửa tàn chưa chịu tắt đột nhiên bộc phát ra làm người ta sợ hãi:

“Như vậy cũng đành chờ xin Vương gia chỉ giáo cho.”

Duệ Thân Vương như không để ý, nghiền nát những cánh hoa trong tay. Từng sợi từng sợi tơ hoa rách nát theo tay chàng lác đác rơi rụng xuống đệm hồng.

“Nếu như bổn vương nói sẽ cho cô cơ hội báo thù rửa hận, không biết có thể nhận lại chút báo đáp?”

Nàng chậm rãi ngẩng đầu, thanh âm vẫn khàn khàn khó nghe như trước:

“Đến lúc đó, thiên hạ hẳn đã nằm trong tay Vương gia, chỉ sợ ngài cũng chẳng thèm đếm xỉa đến chút báo đáp nhỏ nhoi của nữ tử như ta.”

Duệ Thân Vương bật tiếng cười vang, liên tục nói “Được lắm, được lắm” rồi đưa mắt đánh giá nàng từ trên xuống dưới, nói:

“Quả không hổ danh là Mộ gia nữ nhi.”

Cổ họng Như Sương như lại đau nhức, nàng không mảy may phát ra một tiếng động, nhưng trên mặt lại hiện lên một nụ cười khó hiểu.

Duệ Thân Vương nói:

“Toàn bộ công việc đều sẽ có người thay cô an bài, cô chỉ cần chú tâm tĩnh dưỡng, chờ có ngày nhận tin tốt.”

Nàng chỉnh đốn trang phục hành lễ, khó khăn thốt ra mấy lời:

“Như Sương đa tạ ân phúc Vương gia.”

Duệ Thân Vương nhẹ cười:

“Như Song? Như đôi như cặp, thật ra là một cái tên hay.”

Chàng dường như đã nghe lầm, nàng là Như Sương, trăng lạnh như sương! Mẹ sinh ra nàng ngày đó, đúng vào đêm mười sáu, cha ôm lấy hài tử sơ sinh quấn trong tã lót, trông ra ngoài cửa sổ ánh trăng sáng trong tĩnh mịch phủ đầy đất như sương sa, liền lấy tên này đặt cho nàng.

Song cửa sổ ẩn hiện có ánh sáng mờ ảo chiếu vào, nhưng chẳng phải ánh trăng, chỉ là một đợt tuyết lại nổi lên cùng hàn quang lạnh lẽo. Tuyết rơi càng lúc càng lớn, từng hạt đập lên khung cửa sổ. Nhìn thấy chiếc lọ sứ dẹt khắc hoa văn tinh xảo nằm trên tràng kỷ, nàng chậm rãi vươn tay cầm lấy. Bên trong lọ đều là những viên thuốc màu xanh biếc, tỏa hương lành lạnh.

Nàng nắm chặt chiếc lọ trong lòng bàn tay, khí lạnh từ đó phát ra, thẩm thấu cả vào trong tay nàng. Nàng nhớ lại giọng cười mỉa mai khi nãy của hắn, nàng sẽ cố gắng nhớ  rõ những lời nghe được hôm nay, nàng phải sống, sống thật tốt để chờ cơ hội tới.

Đã là Mộ gia nữ nhi, đến chết còn chẳng sợ, lẽ nào còn sợ sống? 

Bình luận

Truyện đang đọc

Báo lỗi