TRONG BÓNG TỐI

Đào Long Dược và Tạ Lam Sơn cùng chạy tới phòng tranh Hạc Mỹ, ai ngờ có một người quen đã đến trước cả bọn họ. Bóng dáng nổi bật như hạc giữa bầy gà, cao ráo anh tuấn, không cần nhìn mặt cũng nhận ra. Đào Long Dược nghiêng đầu ghé vào bên tai Tạ Lam Sơn, hắn hạ giọng hỏi: “Cậu báo cho anh ta tới à?”

“Không hề.” Tạ Lam Sơn cũng nhìn người nọ rồi mỉm cười, “Thần giao cách cảm, ăn ý như thế đấy.”

Người đứng bên cạnh Thẩm Lưu Phi là Trương Văn Lễ, giám đốc điều hành của phòng tranh Hạc Mỹ, người nọ tầm hơn bốn mươi tuổi, chăm sóc bản thân khá tốt, vóc người thanh lịch dong dỏng cao. Nghe nói hắn ta cũng là họa sĩ, nhưng khác với Thẩm Lưu Phi đi theo trường hội họa phương Tây, người này nghiên cứu hội họa Trung Hoa từ nhỏ, mà trước giờ không có thành tựu gì đáng kể. Nhưng dù kỹ năng hội họa chỉ ở mức bình thường, trình độ luồn cúi lại rất gì và này nọ. Hiện tại Trương Văn Lễ là lãnh đạo hiệp hội mỹ thuật này, đồng thời còn là quản lý hiệp hội nghệ sĩ khác, có cả chức vụ hành chính lẫn uy danh trong xã hội.

Đào Long Dược nói rõ mục đích tới đây, chính bản thân hắn cũng thấy hơi xấu hổ: “Có khi con nhỏ đó tố cáo sai, nhưng cũng cần phải đảm bảo rằng mọi thứ đều không có sai sót trước khi mở triển lãm bảo vật quốc gia.”

“Hẳn rồi, lần này phải phiền các đồng chí cảnh sát dốc sức trong công tác bảo an của triển lãm ‘Ấn Tượng Trung Hoa’.” Trương Văn Lễ đáp lời một cách lịch sự, thái độ cũng rất khách khí, “Chỉ là vì tấm ‘Lạc Thần Phú Đồ’ vẫn chưa được chính thức trả về cho quốc gia, vẫn thuộc vào tài sản tư nhân của ngài Lý Quốc Xương, hiện tại ông ấy vẫn đang đích thân bảo quản bức tranh này, chưa đưa đến phòng tranh Hạc Mỹ.”

Còn về việc thẩm định tính thật giả của “Lạc Thần Phú Đồ”, Trương Văn Lễ tỏ ý bản thân cũng lực bất tòng tâm: “Tôi cũng rất nóng lòng muốn được chiêm ngưỡng đẳng cấp của bảo vật quốc gia.”

Thẩm Lưu Phi tiếp lời Trương Văn Lễ: “Có tổng cộng chín tác phẩm ‘Lạc Thần Phú Đồ’ được cất giữ tại các bảo tàng ở khắp nơi trên thế giới. Phiên bản trong tay Lý Quốc Xương là bức thứ mười, đến nay mới chỉ xuất hiện trên các phương tiện truyền thông phương Tây, được một giáo sư tại đại học Princeton* Hoa Kỳ chuyên nghiên cứu về Lạc Thần Phú và Lạc Thần Phú Đồ nhận định là bút tích gốc. Trong khi đó một vài học giả trong nước và những nhà giám định bảo vật tư nhân cũng đích thân đến Mỹ, có một luồng ý kiến cho rằng dù đây không phải tác phẩm gốc thì cũng là bản sao gần giống nhất với tác phẩm gốc của Cố Khải Chi.” Y ngừng một lát rồi nói tiếp, “Có điều Ủy ban thẩm định di sản văn hóa quốc gia vẫn chưa đưa ra ý kiến ​​về việc này, phải đợi bức tranh chính thức được trao trả cho quốc gia thì mới có thể cho người giám định.”

*Viện Đại học Princeton, còn gọi là Đại học Princeton, là một viện đại học tư thục tọa lạc ở Princeton, New Jersey, Hoa Kỳ. Princeton là viện đại học xếp thứ tư trong các trường và viện đại học cổ xưa nhất ở Hoa Kỳ và một trong tám trường và viện đại học của Ivy League.

“Vậy nên một cô gái còn chưa bao giờ tận mắt nhìn thấy bức tranh sẽ không thể biết đó có phải hàng nhái hay không.” Ai cũng hiểu về nguyên tắc minh bạch, Tạ Lam Sơn nhìn Thẩm Lưu Phi rồi đưa ra thắc mắc của mình, “Nhưng bức tranh này là bảo vật quốc gia bị thất lạc, bỗng nhiên xuất hiện ở nước ngoài lại còn làm nhiều học giả tin tưởng đó là bút tích gốc thì chắc hẳn phải có nguồn gốc thuyết phục chứ?”

“Về vấn đề này thì phải để thầy Thẩm giảng cho chúng ta nghe.” Trương Văn Lễ quay đầu mỉm cười nhìn Thẩm Lưu Phi, nhưng Thẩm Lưu Phi lại không hề nhìn hắn ta. Có thể thấy người này rất kính nể Thẩm Lưu Phi, thậm chí còn cảm thấy hơi sợ y.

Tạ Lam Sơn tỏ ý muốn khám phá kiến thức, anh cười với Thẩm Lưu Phi: “Tôi muốn nghe thêm.”

Thẩm Lưu Phi nói: “Tấm ‘Lạc Thần Phú Đồ’ này hẳn là bức thư họa bị mất ở Tiểu Bạch Lâu, cũng chính là hàng Đông Bắc mà giới chơi đồ cổ Bắc Kinh vẫn thường nói.”

Đào Long Dược hỏi: “Tiểu Bạch Lâu gì cơ?”

“Vào thời chính phủ bù nhìn*, có một tòa nhà màu trắng trong cung ngụy quyền ở Trường Xuân*, nơi này chuyên cất giữ những bức tranh cổ và thư pháp mà Phổ Nghi* mang ra từ Tử Cấm Thành.” Phổ cập khoa học xong, Thẩm Lưu Phi nói tiếp, “Sau khi Nhật Bản đầu hàng vào năm 1945, Phổ Nghi rút khỏi cung ngụy quyền Trường Xuân, để lại rất nhiều bảo vật quốc gia, rồi bị cấm vệ quân tranh cướp hết sạch. Một vệ quân họ Tăng đã đánh cắp rất nhiều bức thư họa nổi tiếng, một trong số đó chính là bức ‘Lạc Thần Phú Đồ’ trong tay Lý Quốc Xương bây giờ. Hậu duệ của nhà họ Tăng đã sang Mỹ và ăn nên làm ra, nhưng gần đây đã bấp bênh bên bờ phá sản do ảnh hưởng từ cuộc suy thoái kinh tế Mỹ, vậy nên bọn họ đã mang bức tranh này tới hãng bán đấu giá Sotheby’s*. Và cuối cùng nó đã được Lý Quốc Xương chốt mua với giá bốn triệu năm trăm đô la Mỹ. Chẳng qua khi đó ông ấy không ngờ bức tranh này lại có thể là tác phẩm gốc, vẫn cho rằng đó là tranh chép thôi…”

*Sotheby’s là một hãng bán đấu giá nổi tiếng, và là hãng lâu đời thứ ba trong lĩnh vực này. Các phần chú thích còn lại nằm ở cuối chương.

Đào Long Dược ngắt lời Thẩm Lưu Phi, hắn kinh ngạc hỏi: “Tranh giả mà có giá lên tới tận bốn triệu năm trăm đô la?!”

Thẩm Lưu Phi hờ hững nhìn hắn: “Tranh chép và hàng nhái là hai khái niệm khác nhau, tôi nghĩ chắc hẳn cô gái tới tố giác kia cũng đã bị nhầm lẫn, ‘Lạc Thần Phú Đồ’ được cất giữ trong Bảo tàng Cố cung ở Bắc Kinh là một bản sao. Dựa theo bản ghi ‘Thạch Cừ Bảo Cấp*’ của Càn Long, bức tranh đã được vẽ bởi một họa sĩ vô danh thời Tống.”

*Thạch Cừ Bảo Cấp là một cuốn sách đặc biệt ghi lại các bức thư pháp và tranh vẽ của các triều đại trước do nội cung của triều đại nhà Thanh sưu tập.

“Thật ra cô gái đó không nhầm lẫn khái niệm đâu, cô ta nói tranh này là do bạn mình vẽ…”

“Sao thế được?” Trương Văn Lễ nghe thấy thì bật cười, “Tôi thì không phải một họa sĩ có năng khiếu, nhưng thầy Thẩm thì phải. Mấy người hỏi thầy Thẩm xem cậu ấy có làm được không?”

Thẩm Lưu Phi lắc đầu: “Tôi không làm được.”

Đội trưởng Đào ngẫm lại cũng cảm thấy đúng là trò đùa, hắn quyết định ngậm miệng im lặng.

Tạ Lam Sơn thì hơn hẳn Đào Long Dược, anh đưa ra nghi vấn hợp lý cho chuyện này: “Giả sử bức ‘Lạc Thần Phú Đồ’ của Lý Quốc Xương thật sự là bút tích của Cố Khải Chi thì rõ ràng hai bức ‘Lạc Thần Phú Đồ’ đều nằm trong bộ sưu tập trong hoàng cung thời nhà Thanh, vậy tại sao bản sao thì được ghi vào sách sử còn bản gốc bị thất lạc ở cung ngụy quyền Trường Xuân lại không? Chẳng nhẽ Càn Long không phân biệt nổi thật giả, không có khả năng giám định và đánh giá?”

“Đúng là có khả năng đó, bộ sưu tập tranh của hoàng gia vốn cũng lẫn lộn thật giả, lấy hai bức ‘Phú Xuân Sơn Cư Đồ’ trong Bảo tàng Cung điện Quốc gia ở Đài Bắc làm ví dụ, Càn Long cho rằng ‘Tử Minh Quyển’ là thật, nhưng theo quan điểm chung của các thế hệ sau thì ‘Vô Dụng Sư Quyển’ mới là thật.” Thẩm Lưu Phi nhếch môi nở một nụ cười rất nhạt, “Hoằng Lịch gia* phải ứng phó với hậu cung tranh đấu suốt cả ngày, khéo cũng nhầm lẫn khi xem tranh.”

*Hoằng Lịch là tên thật của Càn Long.

Khi Thẩm Lưu Phi nói, những nhân viên đứng xung quanh đều nhìn chằm chằm không dời mắt, vẻ mặt ai cũng tràn đầy ngưỡng mộ. Vài du khách vãng lai cũng phải dừng chân ngoái lại, giọng hắn vừa trầm vừa mềm mại, chưa kể học thức phong phú nên nghe rất sướng tai.

Đã là đội trưởng đội trọng án thì đương nhiên không phải dạng vô dụng, Đào Long Dược cũng có khả năng đánh giá của riêng mình: “Nhưng dù cùng thuộc danh sách mười bức tranh nổi tiếng được lưu truyền từ đời này sang đời khác, chủ đề của ‘Lạc Thần Phú Đồ’ là tình yêu, không thể so sánh với hai bức vẽ núi non sông nước và phong tục tập quán của quê hương, khuôn khổ cũng nhỏ.”

“Không nhỏ đâu, tùy xem cách nghĩ như thế nào.” Thẩm Lưu Phi nhìn sang Tạ Lam Sơn, “Đời người vừa dài lại vừa ngắn, có người nhung nhớ phương xa, có người nhìn này trông nọ, có người cùng lắm chỉ muốn tìm được người kia… Dù là sống một ngày hay sống cả đời, người kia chính là phương nam khi tuyết đổ.”

Ánh mắt của Thẩm Lưu Phi không còn giống ngày trước nữa, vừa dịu dàng lại vừa bi thương, Tạ Lam Sơn chìm trong ánh mắt này, một thứ cảm xúc kỳ lạ dần lên men trong lòng anh, rồi nhanh chóng khiến anh cảm thấy ngượng ngùng.

Để phá vỡ bầu không khí xấu hổ này, Tạ Lam Sơn chợt hỏi: “Hôm ở quán bar kickboxing, tại sao Lý Quốc Xương lại tỏ ra kinh ngạc như vậy khi nghe thấy tên anh?”

Thẩm Lưu Phi nhẹ nhàng nhếch môi, vẻ mặt y khôi phục lại như cũ: “Thế thì cậu phải hỏi ông ta.”
Hết chương 43.

*Chính phủ bù nhìn hay chính quyền bù nhìn, hoặc các tên gọi khác như chính quyền con rối, chính quyền tay sai, ngụy quyền…là một dạng chính quyền do thế lực nước ngoài dùng vũ lực để lập ra và điều khiển chứ không phải do người nước đó lập ra. Nhìn chung, khi xảy ra chiến tranh, các lực lượng bên ngoài đều cố gắng thiết lập những chính quyền bù nhìn bản xứ, nhằm tạo điều kiện thuận lợi khai thác lực lượng bản xứ theo mục đích của mình, xoa dịu sự chống đối của người bản xứ, cũng như tránh những tranh cãi hoặc sự lên án của dư luận chính quốc. 

*Mãn Châu Quốc hay từ năm 1934 trở đi là Đại Mãn Châu Đế quốc, là chính phủ bù nhìn do Đế quốc Nhật Bản lập nên ở Mãn Châu, do các quan chức nhà Thanh cũ tạo ra với sự giúp đỡ của Đế quốc Nhật Bản vào năm 1932. 

*Trường Xuân là thủ phủ và là thành phố lớn nhất ở tỉnh Cát Lâm, Trung Quốc. Nằm ở trung tâm bình nguyên Đông Bắc. Từ năm 1932 đến năm 1945, Trường Xuân được đổi tên thành Tân Kinh, bởi người Nhật khi nó trở thành thủ đô của chính phủ bù nhìn Mãn Châu Quốc của đế quốc Nhật Bản. Sau khi chính quyền Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa được thành lập vào năm 1949, Trường Xuân được chọn là thủ phủ của tỉnh Cát Lâm vào năm 1954.

*Ái Tân Giác La Phổ Nghi là vị vua thứ 12 và là vị vua cuối cùng của triều đại Mãn Thanh nói riêng và của chế độ quân chủ trong lịch sử Trung Quốc nói chung. Ông lên ngôi lúc 2 tuổi, thoái vị năm 1912 khi Cách mạng Tân Hợi bùng nổ và được Phát xít Nhật đưa lên làm Hoàng đế bù nhìn của Đại Mãn Châu Đế quốc ở Đông Bắc Trung Quốc năm 1934. 

Về Thạch Cừ Bảo Cấp, Tử Minh Quyển và Vô Dụng Sư Quyển, các bạn có thể tìm thấy thông tin trên google.

Bình luận

Truyện đang đọc

Báo lỗi