A Mạch lúc này vẫn dấu đi nút thắt
quan trọng, cười nói: “Tiên sinh, là chiến pháp gì tạm thời ta không nói vội, ta chỉ cần hai ngàn kỵ binh, một vạn bộ binh. Còn lại vẫn dựa theo kế hoạch ban đầu mà làm. Nếu ta thất bại, sẽ trốn vào khe núi Phi Long, không chừng còn có thể dụ được Thường Ngọc Thanh truy kích đến đó.”
Từ Tĩnh: “Cánh quân mới này do ai thống lĩnh?”
Trong đầu A Mạch thoáng hiện lên một người, lập tức đáp: “Hắc Diện!”
Hắc Diện, sau chính biến ở thành Thái Hưng, A Mạch dẫn quân tiến về Thanh Châu, đã lệnh cho anh ta trở về núi Ô Lan hộ tống Từ Tĩnh đến đây. Khi anh ta đến thì quân Giang Bắc đã
điều chỉnh xong, vẫn chưa bố trí anh ta thực sự giữ chức vụ gì, bởi vậy, mặc dù Hắc Diện vẫn có tên trong hàng ngũ tướng lĩnh, nhưng trên thực
tế lại rất nhàn rỗi.
Cách một ngày sau, A Mạch liền cho
gọi Hắc Diện đến, sau khi cùng anh ta mật đàm nửa ngày lại cho gọi thống lĩnh kỵ binh Trương Sinh đến, thương lượng với anh ta lấy hai ngàn kỵ
binh giao cho Hắc Diện chỉ huy. Kỵ binh của Trương Sinh vốn chưa đến năm ngàn, trước đó vài ngày lại vừa xuất một ít binh lính già yếu đưa về bộ binh doanh, hiện giờ trong tay tổng cộng cũng chỉ có bốn ngàn, A Mạch
vừa hé miệng lại muốn lấy đi hai ngàn, trên mặt Trương Sinh bất giác
hiện rõ vẻ ngạc nhiên. Chẳng qua Trương Sinh vốn vô cùng tin phục A
Mạch, hơn nữa, kỵ binh vốn do Đường Thiệu Nghĩa kiến lập nên, anh ta có
thể tiếp nhận vị trí này hoàn toàn dựa vào sự tín nhiệm của A Mạch, cho
nên cũng chỉ thoáng chần chờ trong giây lát, rồi sảng khoái đáp: “Được!”
Trương Sinh đã đáp ứng rồi, những chuyện còn lại dễ hơn rất nhiều.
Thủ hạ bộ binh doanh của Vương Thất
và cung nỏ doanh vừa sáp nhập xong, A Mạch lại lấy từ trong doanh trại
của anh ta một vạn binh lính tráng kiện giao cho Hắc Diện. Vương Thất
không giống với Trương Sinh, anh ta và A Mạch chung một ngũ đi lên, tình cảm không thể so với những người bình thường khác, nói chuyện cùng A
Mạch cũng tùy ý hơn rất nhiều. Thấy A Mạch muốn lấy binh lính tráng kiện từ bộ binh doanh của mình để thành lập một cánh quân mới, không khỏi
quấn lấy A Mạch hỏi cánh quân mới này để thực hiện chiến pháp mới nào.
Ai ngờ A Mạch cũng không nói lộ điều gì, chỉ bảo sau này thấy rồi sẽ
biết. Nghe xong, Vương Thất càng cảm thấy thâm tâm ngứa ngáy khó chịu,
tuy nhiên, đối với chuyện thành lập cánh quân mới này so với Hắc Diện
còn tích cực hơn, chỉ trong vòng hai ngày đã đem người giao cho Hắc
Diện.
Có người, lại có trang bị, cánh quân
mới chỉ còn đợi sắp xếp, phối hợp với sàng nỏ(1), trên tường thành Thanh Châu vốn không đủ, phải cho thợ thủ công chỗ quân giới chế tạo thêm,
việc này hơi mất thời gian, tổn hao công sức, và cũng khó làm. Thứ cần
dùng nữa là vài chiếc xe, A Mạch nhốt mình trong phòng nửa ngày, phỏng
theo trí nhớ, cuối cùng vẽ xong một bản vẽ, giao cho Lý Thiếu Hướng,
lệnh cho anh ta căn cứ theo bức vẽ chế tạo gấp.
Lý Thiếu Hướng nghe sơ qua liền muốn
đến chỗ quân giới đẩy nhanh tốc độ chế tạo xe ngựa ngay lập tức, còn nói là muốn đi Ký Châu vận lương, nên liên mồm đáp ứng, nhưng khi nhìn đến
bản vẽ mô phỏng của A Mạch thì kêu lên: “Đại nhân, xe này của ngài không thể dùng được, vừa nhìn là biết ngài không phải xuất thân từ gia đình
nông dân. Ta mặc dù không phải là thợ mộc, nhưng xem qua cũng biết bản
vẽ này là để chế tạo xe ngựa…”
A Mạch dở khóc dở cười, vội vàng cắt
ngang lời Lý Thiếu Hướng, chỉ phân phó nói: “Cái khác ngươi không cần
phải xen vào, chỉ cần tìm thợ mộc đến căn cứ theo bản vẽ này làm mẫu một chiếc xe đem trước đến cho ta xem rồi nói sau!”
Lý Thiếu Hướng vẫn tỏ vẻ không tình
nguyện, muốn cùng A Mạch bàn luận tiếp. A Mạch sợ anh ta quấy rầy, đành
phải lừa anh ta: “Xe này mặc dù không phải dùng để vận lương, nhưng nhờ
có nó chúng ta sẽ có được không ít lương thực, ngươi cứ yên tâm!”
Lúc này Lý Thiếu Hướng mới càu nhà
càu nhàu bước đi, lại tìm trong quân khoảng một trăm binh lính trước đây từng làm thợ mộc đến hỗ trợ, lúc này mới gấp rút trong vòng một tháng
giao ra ba trăm chiếc xe thiên tương(2). Cái gọi là xe thiên tương, kỳ
thật chính là một cỗ xe có cả tác dụng tấn công và phòng thủ, chế tạo
thành một cỗ chiến xa có những tấm bình phong bảo vệ, song khi kết hợp
cùng với ngựa sẽ tạo thành một loại chướng ngại vật, hợp thành một doanh xe để ngừa địch đánh bất ngờ. Từ những tấm bình phong bảo vệ này có
những ô cửa sổ ở giữa, sàng nỏ sẽ được bắn ra từ đó, tấn công theo kiểu
“Vừa đánh vừa tiến lên”. Loại xe này từ mấy trăm năm trước đã có người
dùng rồi, chẳng qua khi chế tạo A Mạch có thay đổi một chút, có tám tấm
bình phong có thể gấp lại, chiều dài tổng cộng là mười lăm thước, bình
thường chúng được đặt ở trên càng xe, khi tác chiến đánh trận thì mở ra
dựng ở một bên bánh xe như một cái hòm lớn, cho nên gọi là “Xe thiên
tương”.
Tuy đã có chiến xa, sàng nỏ theo bộ
lại không thể chế tạo gấp theo được. A Mạch biết Lý Thiếu Hướng đã cố
hết sức cho nên không trách móc anh ta, chỉ đem những chiến xa này giao
cho Hắc Diện, lệnh cho anh ta dùng những cỗ xe trống đó cho cánh quân
mới thao luyện trước.
Cánh quân mới có giáo trường riêng,
bốn ngàn bộ binh bắt đầu thao luyện, trải qua một tháng huấn luyện đặc
biệt, hiện giờ diện mão đã bắt đầu lộ rõ. Trận địa của bọn họ rất khác
so với trước kia, tất cả tạo thành một đội, đứng đầu là đội trưởng, thứ
hai là người một tay cầm trường bài(3), một tay cầm khiên mây, trường
bài để che chắn trường thương, loan đao của địch, khiên mây(4) làm bằng
chất liệu nhẹ có cài giáo, đao, cầm trường bài và khiên mây chủ yếu để
yểm hộ cho đội quân phía sau tiến lên, khiên mây ngoại trừ yểm hộ còn
phủ phục trước vó ngựa địch. Hai người tiếp theo cầm lang tiển(5), lợi
dụng lưỡi dao sắc bén phía trước của lang tiển mà ám sát địch nhân, dùng khiên tăng cường yểm hộ đồng thời tay kia dùng trường thương tấn công.
Tiếp đó là bốn người tay cầm trường thương, trái phải hai người, chủ yếu khiêu khích khiến cho quân địch xuống ngựa, tiếp theo là sử dụng đoản
đao và vũ khí ngắn tấn công vào bên sườn và bên hông của địch, tiến sát
lên chém giết địch nhân.
Sáu ngàn bộ binh được phân phối giữ
ba trăm cỗ chiến xa. Hai mươi bộ binh phụ trách một chiến xa, trong đó
mười người trực tiếp lệ thuộc vào chiến xa, nhiệm vụ là bắn sàng nỏ,
mười người còn lại thì tạo thành một “Tiểu đội sát thủ”, tay cầm khiên
mây, đinh ba cùng đơn đao cán dài(6)nghênh địch. Khoảng cách giữa tiểu
đội sát thủ và chiến xa duy trì trong vòng hai mươi lăm thước, nếu bọn
họ tiến lên, chiến xa cũng theo đó mà được đẩy lên phía trước.
Vì sàng nỏ không thể chế tạo gấp
được, nên mấy trăm cỗ chiến xa đành buộc đá lớn vào để luyện tập, sau đó binh lính đẩy chiến xa chạy khắp giáo trường…
Vẫn cùng một cảnh tượng, nhưng khi rơi vào trong mắt những người khác nhau lại này sinh ra ra những ý nghĩ khác nhau:
Ánh mắt Từ Tĩnh khi nhìn cảnh này
dường như tỏa sáng, ban đầu, ông ta vốn tưởng rằng A Mạch chỉ muốn dùng
xa trận đối kháng với kỵ binh, đang muốn khuyên nhủ A Mạch đừng cố chấp
mà tự làm khó cho mình, cách đó không thể thủ thắng được đâu, hiện giờ
nhìn thấy cảnh tượng này, tay không tự chủ được mà đưa lên giữ chặt chòm râu trên cằm.
Vương Thất nhìn những binh lính cường tráng đó mà cũng thấy vô cùng tự hào, không hổ là lấy từ trong doanh
trại của ta ra, các ngươi đâu thể vạm vỡ bằng những tiểu tử này được?
Quan quân nhu Lý Thiếu Hướng nhìn
thấy một màn này mà càng thêm đau lòng, một đám ăn uống như bị mất cắp,
thế mà lại chỉ để làm mấy cái việc đẩy đá, có sức lực như vậy làm cái gì khác mà chả tốt, thật lãng phí quá a.
Mỗi người một tâm tư, cứ thế mà ngày
trôi qua rất nhanh, cái tết đầu tiên của quân Giang Bắc ở Thanh Châu đã
đến. Nhưng không khí vui mừng của năm mới không chạm được chút nào lên
khuôn mặt của Lý Thiếu Hướng, ngược lại, lại khắc sâu lên đó thêm vài
phần sầu khổ, cửa ải cuối năm, cửa ải cuối năm a, lễ mừng năm mới chính
là cửa ải cuối năm của người nghèo a. Cái khác tạm thời không nói, chỉ
nói trước mắt không có bột cũng chẳng có thịt, lấy cái gì cho mọi người
đón năm mới đây? Lý Thiếu Hướng giương mắt nhìn lên bầu trời tối tăm,
hận không thể khiến những thứ đang trút từ trên trời xuống không phải là tuyết, mà là bột mỳ a.
Có lẽ nỗi lòng ai oán của Lý Thiếu
Hướng đã thấu lên tận trời xanh, cho nên vào ngày hai mươi tám tháng
chạp, ngoài thành Thanh Châu đột nhiên có người đưa tới cho quân Giang
Bắc mấy chục xe toàn đồ ăn ngon của nơi thôn dã. Áp giải đoàn xe là hơn
ba mươi hán tử tráng kiện, đầu tiên họ cho xe ngựa dừng lại ở phía xa
xa, rồi duy nhất một người đi tới dưới thành, hướng về phía trên tường
thành cao giọng hô: “Có vị cố nhân tặng Mạch tướng quân chút quà năm
mới, thỉnh quân gia buông cầu treo cho chúng ta đem những lễ vật này vào thành.”
Binh lính thủ thành nào dám tùy ý
buông cầu treo, nghe vậy liền vội vàng xin chỉ thị của trưởng quan. Hôm
nay, phụ trách bảo vệ thành là Hữu phó tướng quân Mạc Hải, nhận được tin liền lên trên thành để xem, chỉ thấy xa xa dưới thành một đoàn xe ngựa
đang đứng chờ, xe nào xe nấy chất đầy hàng hóa, ước chừng phải đến ba,
bốn mươi cỗ xe. Hán tử đứng dưới thành nhìn thấy một vị tướng quân mặc
mũ giáp đi lên, biết là người chịu trách nhiệm ở đây, liền cao giọng
nói: “Ta được một vị cố nhân của Mạch tướng quân ủy thác đến đây giao
tín vật, phiền vị tướng quân này giao cho Mạch tướng quân, ngài ấy nhìn
thấy sẽ nhận ra.”
Nói xong vung tay lên, một bọc nhỏ
liền bay thẳng lên vọng lâu của tòa thành, rơi vào trong lòng Mạc Hải.
Con sông đào bảo vệ thành ước chừng rộng vài chục trượng, lại thêm độ
cao của tường thành, thế mà người nọ chỉ tiện tay ném một cái, vật nọ
liền bay tới trước người Mạc Hải, đủ thấy lực cánh tay của anh ta mạnh
đến mức khiến người ta phải phát sợ. Mạc Hải trong lòng thất kinh, nhận
được cái bọc nhỏ kia liền mở ra, thấy trong đó là một tấm huy hiệu của
quân Nam Hạ bằng đồng, khắc cấp bậc giáo úy. Mạc Hải nhất thời không
đoán ra đây là tín vật của người nào, liền vội vàng gọi người cầm bọc
nhỏ bằng vải bố đi tìm, đưa cho A Mạch.
A Mạch đang ở trên giáo trường chỉ
đạo Hắc Diện huấn luyện cánh quân mới, Lý Thiếu Hướng vẫn như trước, bám theo bên cạnh nàng lải nhải việc quân nhu. A Mạch nghe mà phát phiền,
mấy lần muốn phất tay đuổi Lý Thiếu Hướng đi. Thủ binh trên tường đến
đưa cái bọc nhỏ bằng vải bố cho nàng, nói là ngoài thành có người tặng
nàng lễ vật mừng năm mới, đặc biệt giao tín vật này cho nàng. A Mạch
kinh ngạc, đợi khi nhìn rõ tấm huy hiệu giáo úy trong bao vải kia, đầu
tiên là ngẩn người, tiếp đó là vui mừng khôn xiết, không kịp dặn dò Hắc
Diện một tiếng, liền xoay người đi vội ra khỏi giáo trường.
Lý Thiếu Hướng đứng ở phía sau nhìn
cảm thấy rất lạ, lại nhớ đến mấy chữ “Lễ vật năm mới” mà tên lính kia
vừa nói, liền vội vàng lặng lẽ đi theo, thấy sải chân của A Mạch thật
dài, dường như không nhịn được mà muốn chạy đi.
Mạc Hải vẫn chờ trên vọng lâu của
cổng thành, thấy A Mạch nhanh như vậy đã tới, bất giác có chút kinh
ngạc, vội vàng chạy lại đón, kêu lên: “Đại nhân.”
A Mạch tùy ý khẽ gật đầu, rồi hướng
bước chân đến lỗ châu mai hỏi Mạc Hải: “Người đó đâu?” Vừa hỏi xong đã
đi đến bên cạnh lỗ châu mai rồi, A Mạch cúi xuống nhìn, nhất thời có
chút trố mắt, chỉ thấy bên kia con sông đào bảo vệ thành có mấy chục cỗ
xe chở hàng im lìm đứng đó, nhưng một bóng người cũng không thấy đâu.
Mạc Hải đáp: “Người đó nói những thứ cần đưa đã đưa đến đây rồi, nên anh ta về trước.”
A Mạch khẽ giật mình, lúc này mới ừ một tiếng.
Mạc Hải lại hỏi: “Đại nhân, những xe ngựa này làm sao bây giờ?”
Đoàn xe ngựa kia có khoảng ba, bốn
mươi chiếc, phía trên đều phủ cỏ, tất cả các xe đều được xếp đầy, từ
trên thành nhìn xuống thật không biết bên trong là cái gì, nếu có dấu
người bên trong cũng không thể nhận ra được. Nghe Mạc Hải hỏi, A Mạch
liền mỉm cười, quay đầu lại nói: “Tặng lễ vật năm mới cho chúng ta thì
cứ thu lại là được, đúng lúc Lý Thiếu Hướng cả ngày không ngừng nhắc tới nhắc lui là lấy đâu ra đồ mừng năm!”
Nàng nói xong, Mạc Hải còn chưa kịp
nói gì, thì Lý Thiếu Hướng vừa mới thò mặt lên tường thành cũng đã vô
cùng lanh lẹ lên tiếng, xoay người, chân không ngừng bước mà đi luôn
xuống dưới thành. A Mạch vội gọi anh ta lại dặn dò: “Gọi người đi dắt
la, ngựa đến, kiểm kê cho rõ ràng rồi kéo hết xe vào thành.”
Lý Thiếu Hướng quay lại nhếch miệng
cười nói: “Còn dắt la, ngựa làm gì, dù sao những người của lão Hắc hằng
ngày đều luyện đẩy xe ngựa đấy thôi, ta đi gọi bọn họ đến đây là được
rồi.”
A Mạch không khỏi bật cười, bất đắc
dĩ lắc lắc đầu, tấm huy hiệu bằng đồng nắm chặt trong tay một hồi lâu đã mang theo nhiệt độ cơ thể của nàng, A Mạch cúi đầu nhìn kỹ một lát, cẩn thận thu vào trong lòng, ngẩng đầu nhìn tầng mây đang bị ép nặng trĩu.
Gió Bắc đã nổi lên, cuốn theo nhiều bông tuyết rơi xuống, trong không
khí phảng phất có mùi thuốc pháo. Thịnh Nguyên năm thứ năm, cuối cùng
thì một trận tuyết lớn đã xuất hiện.
2- Xe thiên tương: thiên nghĩa là
lệch 1 bên; tương nghĩa là cái hộp. Đọc phần miều tả hình dáng chiếc xe
này trong truyện các bạn sẽ hiểu tên của nó.