ICO, LÂU ĐÀI TRONG MÀN SƯƠNG

Oneh nghĩ là do nước mắt của bà làm bà khó nhìn thấy sợi dây trên khung cửi, nhưng bà sớm nhận ra sai lầm của mình. Mặt trời đang lặn. Bóng tối lấp vào các góc của phòng dệt, và khi bà nhìn lên, bà không thể thấy những xà nhà trên đầu mình.

Oneh lướt qua chiếc ghế ngồi dệt của mình, đi về phía bên kia của khung cửi, và kiểm tra tấm vải. Trong nửa ngày, bà chỉ dệt được độ dài một ngón tay. Họa tiết lộn xộn đến nỗi bà khó có thể nhận ra được.

Ánh sáng không được phép có trong phòng dệt vì nguy cơ bị cháy; hôm nay bà sẽ không thể tiếp tục làm việc. Bà ấn những ngón tay lên thái dương và cảm thấy cơn đau đầu của mình. Thực sự, bà không mệt mỏi. Có lẽ bởi vì trận khóc của mình. Oneh thở dài. Mình không muốn phải làm công việc này. Mình đã không nuôi nấng thằng bé vì điều này –

Đó là chỗ bà đã sai lầm, chồng bà, trưởng lão, đã khiển trách. Vợ của trưởng lão không được bắt gặp coi thường luật lệ. Bà có thể thương hại Ico, nhưng thằng bé đã sẵn sàng. Là do bà không có khả năng bỏ qua chuyện này, sự bám víu đầm đìa nước mắt của bà làm thằng bé đau khổ.

Bà tự hỏi Ico đang như thế nào. Đã mười ngày qua từ khi thằng bé vào hang. Tất cả phụ nữ, ngay cả bà, bị cấm đến gần nơi đó. Bà không một lần được nhìn mặt thằng bé hoặc nghe giọng của nó. Nó có ăn uống đầy đủ? Cái hang hẳn rất tối và lạnh. Nếu thằng bé bị cảm lạnh…

Đó sẽ là trận cảm lạnh đầu tiên thằng bé từng nhiễm phải trong đời nó. Oneh đã chứng kiến bằng chứng về sự ngoan cường của Ico đủ để biết nó sẽ ổn. Thằng bé có thể rơi ngửa từ trên ngọn cây xuống và đứng dậy trên đôi chân mình một giây sau đó để xòe tay ra và cho bà thấy con chim con nó đã bắt từ tổ của nó. Sức mạnh và kỹ năng của nó đã từng mang rắc rối đến cho nó – giống như lần khi, chỉ sau lễ nghi của nó, thằng bé đã vướng vào một trận chiến với một vài thợ câu cá trẻ về khả năng bơi được sâu hơn và nín thở lâu hơn của nó so với bất cứ ai trong số họ. Hôm đó nó đã đánh lại sáu đứa con trai khác và trở về nhà chỉ với vài vết xây sát. Chúng là những ký ức yêu thích. Những ký ức đáng tự hào.

Những người khác trong làng nghĩ rằng tình cảm của Oneh dành cho Ico đến từ sự đồng cảm sâu sắc dành cho thằng bé và nỗi phiền muộn của bà là trở thành người phải nuôi nấng nó mặc dù nó không phải con ruột của bà. Thậm chí trưởng lão cũng nghĩ vậy. Nhưng họ đã sai. Ico là ánh sáng của trái tim bà. Bà yêu thương thằng bé nhiều như bất kỳ bà mẹ nào có thể yêu thương đứa con của mình. Nuôi nấng thằng bé là một niềm hạnh phúc.

Những đứa trẻ hiểu bà – chúng luôn biết về những điều này nhiều hơn người lớn. Những đứa cháu ruột của bà thường hờn dỗi và hỏi bà vì sao bà thích đứa trẻ có sừng hơn chúng.

“Bởi vì Ico biết vị trí của mình và không cãi lại, và cứ không đòi hỏi hay trêu chọc những đứa trẻ khác,” bà muốn nói với chúng, nhưng bà sẽ kiềm chế lại và thay vào đó nói rằng bà tử tế với nó bởi vì nó là Vật tế. Sau đó cháu bà sẽ mỉm cười và nháy mắt với nhau, vui mừng rằng chúng được sinh ra bình thường, không có sừng.

Chỉ duy nhất một người lớn khác đã nhìn thấu sự che đậy mong manh không thể chối cãi – anh trai bà, người đã mất được năm năm.

“Thằng bé làm cho em yêu thích nó, phải không?” ông đã từng nói với bà một lần. “Đừng quên, Oneh, tại sao thằng bé phải quá thuần khiết, tử tế và không mắc lỗi lầm gì. Nó không phải con người. Tâm hồn của nó trống rỗng, và quỷ dữ không thể bám vào một khoảng trống như nó có thể làm với trái tim phức tạp của chúng ta. Sự trống rỗng chỉ hấp thụ tình yêu và ánh sáng, và phản chiếu nó lại. Không nghi ngờ gì khi người nuôi nấng đứa trẻ có sừng dễ dàng yêu thương nó như thế - họ thấy tình yêu của mình phản chiếu lại trong đôi mắt của nó.”

Ông nhắc nhở Oneh rằng đi đến Lâu đài trong Màn sương không phải là thảm kịch cho thằng bé. “Linh hồn đứa trẻ đã ở trong lâu đài từ ngày nó được sinh ra. Nó trở lại lâu đài để lấy lại linh hồn ấy và trở nên hoàn chỉnh lần đầu tiên trong cuộc đời nó.”

Oneh đã sinh ra trong một gia đình thương gia ở thủ đô. Bà được giáo dục tốt, và thời thơ ấu của bà trôi qua dễ dàng. Anh trai bà, lớn hơn bà sáu tuổi, đã phục vụ ở trường dòng ở thủ đô và nhận được chứng chỉ để trở thành một thầy tu được phong chức vào tuổi hai mươi hai, tuy nhiên trước buổi nghi lễ ông đã rút lại lời thỉnh cầu và rời bỏ cuộc sống thành phố để về miền quê. Những giáo viên của ông và cha mẹ cật lực phản đối, nhưng anh trai bà không chịu lắng nghe. Ông thuê một căn nhà nhỏ trong một thị trấn nhỏ, nơi ông kiếm sống bằng việc dạy những đứa trẻ địa phương đọc viết, không bao giờ cưới vợ, dành những buổi tối của ông để bước vào những cuốn sách cổ, và sống một cuộc đời khổ hạnh. Ông chưa từng trở về nhà, thậm chí không cả một chuyến viếng thăm. Qua nhiều năm ý kiến của cha mẹ với ông đã giảm bớt đi, và vài lần họ đã gửi tin để hòa giải, nhưng ông luôn từ chối họ, một cách nhẹ nhàng nhưng kiên quyết.

Một năm sau khi anh trai bà ra đi, Oneh đi kết hôn ở làng Toksa. Bà mười bảy tuổi. Bà có những anh chị em khác, nhưng bà luôn thân thiết nhất với người anh trai dịu dàng, siêng năng. Đó là lý do, gần tới khi cưới, bà lẻn khỏi nhà và cùng với một nữ hầu đến tham làng anh trai bà. Kết hôn có nghĩ là bà sẽ rời gia đình họ, và bà muốn chào tạm biệt ông.

Anh trai bà vui vẻ khi thấy bà. Bà sửng sốt khi thấy ngôi nhà nghèo nàn của anh mình, tuy nhiên sự rạng rỡ trên mặt ông làm ấm trái tim bà. Đêm đó ông nấu cho bà một bữa ăn đơn giản. Chỉ có nước lọc để uống, nhưng nó mát lạnh và làm khoan khoái.

“Đi đến Toksa, ư?” anh trai bà hỏi.

“Em biết nó xa,” bà nói với ông. “Xa với thủ đô hơn bất cứ nơi nào em từng ở. Nhưng đất đai thì màu mỡ, nước thì sạch, và nó gần cả biển và núi, nơi mà có thức ăn để dùng. Người ở Toksa có nhu cầu ít.”

“Ta cũng đã nghe như thế,” anh trai bà gật đầu, nhìn bà với đôi mắt vẫn trong như nước. “Kể ta biết, cuộc hôn nhân này đã xảy ra như thế nào?”

Oneh không biết chi tiết. Là con gái của cha mẹ, bổn phận của bà là làm theo họ yêu cầu.

“Ta đoán,” anh trai bà nói, “rằng cha chúng ta đã đề nghị sự kết hợp. Em đã đề cập rằng người đàn ông sẽ trở thành chồng em là con trai của trưởng lão trong làng à?”

“Đúng vậy. Điều mà có nghĩa là, một ngày nào đó, em sẽ trợ thành vợ của trưởng lão.” Mặc dù ý nghĩ về việc chuyển đến một nơi xa lạ để cưới một người hoàn toàn xa lạ khiến bà lo lắng, bà cảm thấy chút ít tự hào biết rằng bà sẽ là trở thành một người có vị thế trong ngôi nhà mới của mình.

“Nói ta biết,” sau đó anh trai bà nói, “em đã biết vai trò mà trưởng lão ở Toksa phải thực hiện theo tục lệ địa phương của họ - một tục lệ không được tiến hành ở bất cứ nơi nào khách chưa?”

Oneh lắc đầu. Anh trai bà chuyển ánh nhìn khỏi bà sang những bức tường xù xì, trét bùn của ngôi nhà ông.

“Anh trai?” Oneh nói sau khi ông đã im lặng một lúc.

Khi ông lên tiếng lại, giọng của ông bình tĩnh như trước, nhưng dường như với bà có một bóng đen lướt qua đôi mắt ông. Đôi mắt ông luôn phản bội những xúc cảm của ông. Điều đó đã đúng từ khi họ là những đứa trẻ.

“Em biết ta sẽ không bào giờ phảm đối việc kết hôn của em. Toksa là một nơi thanh bình, phồn vinh, như em nói. Em không cần lo lắng về một việc.”

“Nhưng –”

“Oneh, em rất mạnh mẽ. Mạnh mẽ hơn cha mẹ nghĩ. Và em có sự khôn ngoan vượt xa tuổi của mình. Em sẽ làm một người vợ tốt.”

Bà biết anh bà thật lòng trong những điều mình nói, nhưng để nghe sự tán dương đột ngột đó làm Oneh không thoải mái hơn. “Anh nói về tục lệ gì vậy?” bà hỏi.

“Ta đã sai khi nói ra bất cứ điều gì,” anh trai bà trả lời, nụ cười của ông yếu ớt. “Ta không có ý làm người em gái thân yêu lo lắng với những vấn đề lặt vặt quá sớm trước khi em kết hôn. Không có lý do gì để cảnh giác. Tất cả các ngôi làng đều có tục lệ của họ. Đó là tất cả ý của ta.”

Nụ cười của anh bà không nhạt đi, nhưng bóng tối trong đôi mắt ông trở nên sâu hơn. Oneh biết rằng ông có điều gì khác để nói, bởi vì bà cũng biết tốt hơn không hỏi quá nhiều câu hỏi tại những thời điểm như thế này. Anh trai bà là một người đàn ông trung thực. Nếu có điều gì đó bà cần phải biết, ông sẽ nói với bà khi thời gian thích hợp.

“Toksa là một nơi xinh đẹp, hào phóng,” anh trai bà nói, nói một cách chậm chạp. “Em hẳn đã nói, đó là phần thưởng của nó.”

Oneh không hiểu. Sau tất cả bà định hỏi, khi ông mở miệng cười và quay sang nhìn bà. “Em nhớ viết thư đấy,” ông nói.

“Em sẽ viết.”

“Ta biết em sẽ không nhận được thư từ nhà, không với những người ngầm quan sát em. Nhưng ở nhà mới của em, không ai nghĩ hai lần về một đứa em gái trả lời thư anh trai ở xa của nó.”

Oneh gật đầu, mỉm cười.

“Và nếu ông chồng chúa tể của em trở nên ghen tỵ, hãy nói ông ấy em viết thư cho người anh kỳ lạ ở thủ đô. Nói với ông ấy tất cả những gì ta làm là đọc sách, đó là bụi từ giữ những trang sách đọng lại trên tóc ta, và ta không còn gì thích thú hơn tản bộ giữa những kệ sách thư viện, ống tay áo dài của ta kéo lê trên sàn nhà phía sau ta.”

Oneh cười. “Em sẽ nói với ông ấy anh là một học giả nổi tiếng. Rằng trường dòng đã khẩn cầu anh trở thành một thầy tu – không, thầy tu cấp cao.”

“À,” anh trai bà la lên, “đó là lý do em là đứa em gái yêu thích của ta.” Sau đó ông cười lớn, nhưng thậm chí âm thanh vui vẻ không làm tan biến nỗi buồn khỏi đôi mắt ông.

Việc trao đổi thư từ của họ bắt đầu sau đó. Họ không viết thường xuyên – tất cả cùng nhau, những lá thư của anh trai bà để vừa vặn trong một cuộn giấy da dê. Ông viết gần như quan tâm đến sự sắp xếp cuộc sống của Oneh, thời tiết, và làm sao năm đó mùa màng năm đó lại đến trễ.

Mãi đến tận ngày đó, mười ba năm trước, khi Ico được sinh ra và chồng của Oneh mới kể bà nghe mọi điều. Vượt qua cảm giác khi bà sờ bàn tay trên đầu đứa trẻ và cảm thấy chỗ tròn tròn nhô ra một ngày nào đó sẽ trở thành đôi sừng, bà viết một lá thư khác cho anh trai rất khuya đêm đó.

Cuối cùng em hiểu anh đã nói gì về ngày em thăm anh trước khi kết hôn.

Câu trả lời của anh bà, khi nó đến, là bức thư dài nhất ông từng viết.

Bởi vì em là em gái của ta, em biết rõ ràng vị thần Mặt Trời vĩ đại, Sol Raveh, người mà chúng ta cầu nguyện trong các đền thờ, sinh ra tất cả, sửa chữa tất cả, và cai trị tất cả với sức mạnh của tình yêu.

Dường như với bà giọng của anh trai bà trên trang giấy nghe có vẻ khác hơn nó trước đây. Thậm chí những bức thư được viết theo phong cách thận trọng, tao nhã.

Tuy nhiên Thần Ánh sáng phải chịu đựng nhiều đau khổ đi qua một con đường ngổn ngang trước khi mang đến yên bình cho vùng đất của chúng ta. Ông ấy đã tiến hành nhiều cuộc chiến và thân chinh nhiều trận đánh. Toksa là vị trí của một trong những chiến trường ấy, đặc biệt ác liệt.

Khi ông tiếp tục kể cho bà nghe rằng Sol Raveh đã chiến đấu với một kẻ thù hùng mạnh gần Toksa. Kẻ thù đã bị đánh bại và bắt giam thành công, tuy nhiên chiến thắng không đến nếu không có một sự hy sinh: tục lệ lạ của Toksa, và đứa bé sơ sinh đầu tiên với đôi sừng trên đầu nó.

Vật tế được sinh ra là một người bị giam cầm, thậm chí khi nó là chiến binh của Ánh sáng và một chiếc chìa khóa đá trong bức tường giam giữ kẻ thù. Mặc dù đứa bé có sừng xuất hiện với hình dáng con người, đó không phải là bản chất của nó. Đứa trẻ là con chốt của một sức mạnh vĩ đại hơn. Em phải nuôi dưỡng nó để nó không bao giờ quên rằng đứa trẻ mang một phần của sự thần thánh đó trong mình.

Oneh nhanh chóng viết thư trả lời. Bà khỏi liệu kẻ thù mà làng Toksa đã khiếp sợ hàng năm dài là chủ nhân của Lâu đài trong Màn sương không. Bà đã hỏi làm sao Vật tế có thể xoa dịu cơn giận của chủ nhân. Ông đáp:

Ở Toksa, điều này chỉ được Vật tế biết. Chỉ một đứa bé có sừng, hoặc thầy tu đứng đầu, có thể tìm hiểu để biết điều này.

Có những phần trong lá thư của anh bà có lý, trong khi những điều còn lại thì không. Mặc dù mỗi lá thư kết thúc như nó bắt đầu, với những lời ngợi ca thánh thần, khi bà đọc thư trả lời sau khi trả lời Oneh bắt đầu tự hỏi liệu ông ấy có thực sự tin tưởng vào những điều ông viết.

Một lần, bà thẳng thắn hỏi ông liệu có môt mối liên hệ giữa lý do tại sao anh trai bà từ bỏ việc trở thành một thầy tu và tục lệ của Toksa. Thực tế, bà đang hỏi liệu ông từng đặt câu hỏi về niềm tin của ông khi còn trẻ. Oneh biết rằng nếu bà đưa lá thư cho bất cứ ai khác biết, họ sẽ lấy nó khỏi bà và ném đi. Thần Ánh sáng vĩ đại. Xuyên suốt lòng nhân từ của ông ấy là vùng đất của chúng ta được ban sự bình yên. Nghi ngờ vào thần thánh là tội lỗi nghiêm trọng.

Không có thư hồi đáp. Thay vào đó, bà nhận được tin rằng anh trai bà đã qua đời.

Vật tế được sinh ra là một đứa trẻ bị giam cầm, thậm chí khi nó là một chiến binh của Ánh sáng –”

Oneh nhắm mắt lại và nói chuyện với bóng ma quen thuộc của anh trai bà trong đầu bà.

Anh trai, bà nói, với em, Ico là chỉ là một đứa con, một đứa con yêu quý. Làm sao em có thể gửi nó đến lâu đài với một trái tim còn đập?

“Bà Oneh?”

Bà nghe thấy một giọng nói nhỏ từ cửa sổ. Oneh nhìn lên. “Con à, Toto?” Thằng bé hẳn đang đứng trên đầu ngón chân đế trông như thế, bà tưởng tượng. “Họ gửi con đến để triệu tập ta à?”

Mặt trời đã lặn từ lâu, và phòng dệt đã hoàn toàn tối đen. Oneh dò dẫm với đôi bàn tay để tìm lại những trang giấy sao chép từ một cuốn sách cổ mà bà đã chống đỡ cạnh khung cửi và cuốn chúng lại với nhau như một cuộn giấy. Không có ánh sáng, bà thậm chí không thể thấy được chân mình giữa khoảng thời gian mặt trời lặn và khi nó mọc lại vào buổi sáng. Đây là một trong những lý do họ cho bà một người hộ tống đến và rời phòng dệt.

“Không,” thằng bé thì thầm nhanh chóng. “Cháu tự đến đây. Bí mật.” Cậu nhìn quanh, chầm chậm kiểm tra không ai thấy mình.

“Vậy thì tại sao cháu ở đây?”

“Mới đây cháu được biết bà biết nơi thầy tu đến từ thủ đô ở.”

Thủ đô ở xa. Một kỵ sĩ đã đến mười ngày trước để thông báo sự khởi hành của thầy tu. Đã hai ngày từ khi họ nhận được tin rằng tùy tùng cuối cùng đã đến nơi ở tạm gần Toksa nhất trên đường lớn, nhưng vẫn còn hai ngọn núi cần qua và một dòng sông cạn.

“Cháu cần biết điều đó để làm gì?”

Đôi mắt Toto lập lòe trong bóng tối. “Thầy tu đến từ thủ đô thực sự quan trọng, phải không?” Giọng cậu tràn đầy hy vọng. “Nếu thầy tu nói cháu có thể làm gì đó, vậy thì ngay cả trưởng lão cũng không thể bảo cháu không được làm điều đó – đúng không ạ?”

Oneh mỉm cười thận trọng và bước một bước về phía cửa sổ. “Toto, con đang lên kế hoạch làm điểu gì mà trưởng lão không muốn con làm à?”

“Không, dĩ nhiên không!” Cậu lắc đầu kịch liệt. “Cháu chỉ muốn biết thầy tu gần như thế nào.”

“Ta xin lỗi, ta không biết,” Oneh nói dối.

“Nhưng cháu vừa nói chuyện với Ico, và cậu ấy dường như biết rất nhiều về thầy tu, vậy nên cháu đã nghĩ –”

Oneh tiến về phía cửa sổ. “Toto! Cháu đã nói chuyện với Ico?”

“Hả?” Toto nháy mắt. “Ơ, cháu đoán là vậy,” cậu lắp bắp.

“Cháu đã đến hang động? Làm sao cháu có thể nói chuyện với thằng bé mà không bị người canh gác bắt gặp?”

“Cháu trèo lên một cái cây và chuyền từ cành này sang cành khác. Sau đó cháu nhảy xuống trên một ngọn đồi đá nhỏ và bò qua những tảng đá đến khi với tới cửa sổ ở trên đỉnh.”

Oneh lắc đầu. Đây không phải lần đầu tiên bà nghe về trò leo trèo của Toto. Thằng bé và Ico là câu chuyện của những đứa trẻ khác trong làng về những trò đùa táo bạo của chúng.

“Thằng bé ổn chứ?”

“Cháu đoán thế. Mặc dù chán chết, bị nhốt bởi chính cậu ấy.”

Oneh gật đầu, xoay đầu khỏi cửa sổ để giấu đi những giọt nước mắt dâng lên trong đôi mắt bà.

“Người tức giận à, thưa bà Oneh?” Toto rụt rè hỏi.

“Làm sao ta có thể giận bạn tốt nhất của Ico đến thăm nó chứ? Ta chắc nó cần có sự bầu bạn. Cảm ơn.”

Nụ cười của Toto trở lại trên gương mặt cậu. “Bà biết đấy, cháu đang cố gắng đưa cậu ấy trốn đi,” cậu thừa nhận. “Nhưng Ico nói cậu ấy sẽ không trốn. Cậu nói toàn bộ làng sẽ gặp rắc rối nếu cậu làm vậy. Đó là lý do cháu sẽ đến lâu đài với cậu ấy.”

“Gì?” Oneh nói. “Toto, cháu không thể đi đến Lâu đài trong Màn sương!”

“Phải, đó là điều Ico đã nói. Cậu ấy nói nếu thầy tu phát hiện ra thì sẽ có ‘rắc rối,’ mặc kệ điều đó có nghĩa gì.” Toto cau mày. “Từ khi nào Ico trở thành một con chuột đồng như thế? Và làm sao cháu phải đợi đến nghi lễ trưởng thành của cháu trước khi cháu biết bất cứ điều này có nghĩa là gì? Loại bạn bè nào mà giữ những bí mật như thế?”

Oneh hiểu rất rõ thằng bé cảm thấy như thế nào. Bà cũng cảm thấy bị bỏ rơi khi chồng bà mang Ico đi đến Núi Cấm và trở về với một bí mật mà chỉ có hai người bọn họ mới biết. Trưởng lão chưa bao giờ là một người đàn ông nói nhiều, nhưng bây giờ như thể ông đã bôi sáp lên môi. Và Ico ở trong hang… mình đã mất đi nó.

“Ta sẽ nói với cháu,” bà nói, “nhưng sự thật là, ta không biết nhiều lắm. Trưởng lão nói tất cả chúng ta cần biết là tục lệ bảo vệ của làng cúng ta là một nhiệm vụ linh thiêng và rất, rất quan trọng. Chúng ta không thể chống lại lời của trưởng lão. Gồm cả cháu, Toto.”

Toto khịt mũi, mặt mày phụng phịu. “Vâng, nhưng thầy tu lớn hơn trưởng lão, phải không? Vậy nên điều ông ấy nói mới có hiệu lực. Đó là lý do cháu đang nghĩ cháu có thể nhờ ông ấy đưa cháu đến lâu đài.”

Mất một lúc để Oneh tìm lại giọng của mình. “Vậy đó là lý do cháu muốn biết ông ấy đã ở đâu,” bà hỏi.

“Dạ vâng.”

“Ico đã đề cập đến rắc rối sẽ có nếu thầy tu biết con định làm gì chưa?”

Toto nhún vai. “Ừm, chắc chắn rồi, nếu cháu thử lẻn theo ông ấy. Nhưng nếu cháu có được sự cho phép của ông ấy…”

Oneh lắc đầu. Làm sao bà có thể mong chờ một đứa nhỏ hiểu được khi điều đó vẫn quá khó khăn với bà?

“Ta thực sự không nghĩ thầy tu sẽ để cháu đi, Toto.”

“Sẽ không biết được nếu không thử.”

Oneh thử một cách khác. “Có lẽ - nhưng cháu không phải là người nên đi.”

“Hả?”

“Ta sẽ đi với Ico đến Lâu đài trong Màn sương. Ta sẽ yêu cầu thầy tu để ta đi cùng với ông ta.”

“Bà không được đi theo đường đó, bà Oneh. Bà có lẽ phá vỡ thứ gì đó vì đi vào lâu đài cổ kia.”

“Thậm chí vậy,” Oneh khăng khăng, “không có nơi nào dành cho một đứa trẻ. Ta chắc thầy tu sẽ đồng ý.”

“Sau đó cháu sẽ lẻn theo bà,” Toto nói.

“Cháu không được!” Oneh với qua cửa sổ và đặt một cánh tay lên đầu Toto. “Cháu không thể.”

“Cháu cũng có thể.”

“Ta sẽ nói với cha cháu.”

“Không công bằng –” Toto bắt đầu. Sau đó cậu lùi lại. “Ai đó đang đến!”

Oneh dán đầu mình khỏi cửa sổ và nhìn thấy một ngọn đuốc tiến đến qua bóng tối. Ai đó từ làng đang đến tìm bà.

“Chạy đi, Toto. Nhanh!”

“Cháu sẽ làm tốt hơn thế!” Toto tóm lấy khung cửa sổ và chạy vụt qua bên túp lều trên mái nhà. “Họ sẽ không tìm thấy cháu trên đây.”

Những lời của trượt dài khi Oneh thấy ngọn đuốc xoay theo một nửa vòng cung nhỏ, và một giọng nói gọi lớn, “Bà Oneh, bà đó à?”

“Phải,” bà trả lời, đóng cửa sổ và xoay sang mở cửa chính.

“Xin lỗi tôi đến đưa bà đi khỏi đây trễ,” người đàn ông từ làng nói khi bà bước ra ngoài. Ông ta là một người đàn ông cơ bắp mặc quần áo thợ săn, với một thanh kiếm ngắn bên eo và một cái cung và ống tên quàng qua cái lưng rộng của ông. Oneh nhận ra ông là thủ lĩnh của các thợ săn trong làng. Kỹ năng của ông với cung tên xuất sắc đến nỗi ông có thể đâm qua một quả táo treo trên một cái cây ở xa bên kia bờ sống với mũi tên đầu tiên của mình.

Phòng dệt được xây nên vội vàng trong một mảng rừng trống ngoài làng. Có lẽ có động vật xung quanh khi màn đêm buông xuống, vì thế tôi sẽ gửi đến một thợ săn, chồng bà đã nói với bà. Nhưng Oneh biết sự thật. Những người đàn ông được trang bị được gửi đến để đảm bảo bà không cố trốn đi.

Mục đích duy nhất của phòng dệt là để bà làm tấm Phù hiệu để mặc lên người Vật tế.

Tấm Phù hiệu còn hơn cả một bộ áo choàng đơn giản mặc lên ngoài quần áo của Ico, nhưng nó được dệt bởi một hoa văn đặc biệt được trình bày tỉ mỉ trong những trang của cuốn sách cổ Oneh đã nhận được từ chồng bà. Nó không khó để làm nếu bà làm theo hướng dẫn.

“Bà sẽ về thẳng lại nhà chứ?”

“Đi suốt luôn, đúng vậy.” Oneh ôm cuộn giấy vào ngực và đóng cửa căn lều nhỏ phía sau bà. Ngọn đuốc cháy èo sèo và một tia lửa sáng trôi dạt trong không khí, vượt qua đường của bà.

Người đàn ông chậm chạp bước trước bà. “Tôi tới trễ bởi vì một trong những thợ săn bị thương ở trên núi hôm nay.”

“Ôi! Tôi hy vọng cậu ấy không bị thương quá nặng?”

“Cậu ta ngã xuống từ gờ rìa, gãy cả hai chân,” thợ săn trả lời, giọng ông điềm đạm. “Thậm chí nếu cậu ta bình phục, cậu ta sẽ không đi săn lại được. Không chắc chắn cậu ta sẽ còn đi lại được.”

Tên của thợ săn quen quen. Cậu ta là đứa trẻ vừa qua nghi lễ trưởng thành mùa xuân năm ngoái.

Oneh lắc đầu. “Thật bất hạnh…”

“Cậu ta không có kinh nghiệm,” thợ săn nói. “Khi bà leo núi, bà không bao giờ được nhìn về dãy núi phía bắc – thậm chí nếu quang cảnh rõ ràng. Tôi đã nói với cậu ta điều này rất nhiều lần, nhưng cậu ta không nghe.”

Oneh căng thẳng. “Núi Cấm ư?”

“Quả vậy,” thợ săn nói.

“Người ta thấy gì… trên đó?”

“Không có gì, hầu như lần nào cũng vậy. Nhưng mỗi đứa trẻ biết bà không nên nhìn. Luôn có cơ hội bà có thể thấy gì đó.”

“Vậy cậu ta đã thấy gì?”

Người đàn ông trả lời rằng ông không biết.

“Nhưng làm sao –”

Ông nhún vai. “Cậu ta cứ lẩm bẩm tất cả những điều vô nghĩa. Tôi e rằng cậu ta cũng đã bị đập đầu.”

Trong một lúc, Oneh nhắm mắt lại.

“Ngoài ra, thậm chí nếu cậu ta thấy gì đó và còn biết khôn, cậu ta không nên nói về điều mình đã thấy. Đó là cách tôi được nuôi dạy, và đó là điều tôi sẽ làm ở vị trí của cậu ta. Bà có biết rằng cha tôi là người chỉ huy các thợ săn thời ông ấy? Ông ấy đã kể tôi nghe về một người đàn ông leo lên núi tìm bắn chim cho bữa tối. Đã nói rằng ông ta đã nhìn quá lâu về dãy núi phía bắc.” Người đàn ông dừng lại. “Cơ thể ông trở về, nhưng tâm trí ông ấy không bao giờ quay lại.”

“Một câu chuyện khủng khiếp.”

“Nó chỉ là một câu chuyện,” người thợ săn tiếp tục, “nhưng họ nói nó xảy ra ngay Thời điểm Hiến tế.” Người thợ săn dừng và xoay lại. Ánh lửa từ ngọn đuốc của ông ấy trôi về phía bà. Trong ánh sáng của ngọn đuốc, gương mặt người thợ săn trông khắc khổ và tái nhợt. “Bà Oneh…” ông bắt đầu. “Lâu đài biết khi thời điểm đến. Nếu Vật tế không nhanh chóng làm nhiệm vụ của nó, lâu đài mất kiên nhẫn. Và nó sẽ không giống khi bà hay tôi mất kiên nhẫn, bà Oneh. Tính khí xấu của lâu đài cưỡi lên ngọn gió – đó là điều thằng bé thấy hôm nay.”

Oneh nhìn vào mắt thợ săn. Ông nhìn chằm chằm lại vào bà, không chớp mắt.

“Lâu đài có thể ở xa ngoài những ngọn núi đó, nhưng cơn giận dữ của nó vươn xa như bầu trời vượt qua đỉnh của chúng.”

“Ông đang cố gắng nói gì?” Oneh cuối cùng cố gắng hỏi.

“Tôi biết bà không thích việc dệt,” thợ săn nói, giọng ông sắc lại. “và tôi biết thật khó cho bà để con bà đi. Tôi cũng là một người cha. Nhưng Ico không phải là là con của đàn ông hay phụ nữ. Nó là Vật tế. Và không có gì tốt sẽ đến từ việc níu kéo thời gian của nó.”

Điều diễn ra với Oneh rằng người thợ săn có lẽ đến trễ để triệu hồi bà bởi vì ông đã bàn bạc với chồng bà, quyết định ông nên nói gì.

“Tôi không trì hoãn thời gian.”

“Vậy thì điều đó sẽ ổn,” thợ săn nói sẳng, xoay sang và bắt đầu đi khỏi, bước chân của ông ấy nhanh hơn trước. “Tôi sẽ đến gặp bà vào ngày mai trước bình minh. Nếu chúng ta không hoàn thành chiếc Phù hiệu đó sớm, thầy tu sẽ đến trước khi bà hoàn thành.”

Oneh theo sau ông, đầu bà cúi thấp.

Toto cúi mình trên mái nhà, đôi tai cậu vểnh lên, và cậu đã nghe mọi thứ.

Ai đó bị thương. Đó là loại rắc rối ngay cả Toto cũng hiểu. Nhưng cậu thích thú hơn về điều khác mà thợ săn đã nói – bây giờ cậu biết nơi lâu đài ở đâu.

Sau đó nó đập vào cậu, một ý tưởng tuyệt vời đến nỗi cậu muốn nhảy lên và nhảy múa vui vẻ ngay lập tức. Oneh nói cậu rằng cậu không thể đòi hỏi sự cho phép của thầy tu được theo Ico, nhưng bà không nói bất cứ điều gì về việc đi trước họ, trước khi người tùy tùng rời làng. Cậu có thể đợi họ trên đường đến ngọn núi, và một khi họ vượt qua, cậu sẽ theo dấu họ phần đường còn lại. Chắc chắn điều đó sẽ đưa cậu đến Lâu đài trong Màn sương.

Một khi thầy tu rời họ, Toto nghĩ, mình sẽ nhảy ra và thông báo mình sẽ tham gia cùng Ico trong chuyến phiêu lưu của cậu ấy! Toto chắc chắn Oneh sẽ nghỉ ngơi dễ dàng hơn nếu biết cậu sẽ bầu bạn với Ico. Cùng với nhau, không có gì mà Ico và Toto không thể làm.

Sau đó còn có một ý tưởng hay hơn, và lần này cậu thực sự đã nhảy cẫng lên, đứng trên đỉnh mái. Mình cá là hai chúng ta có thể tìm ông chủ đó trong lâu đài và thách đấu với hắn! Chúng ta có thể thắng!

“Yaaahooo!”

Tiếng hét vui vẻ của Toto vang vọng qua đám cây khi cậu nhảy xuống khỏi mái nhà để hạ cánh nhẹ nhàng bên bìa rừng.

Bình luận

Truyện đang đọc