THANH BÌNH NHẠC (ĐAM MỸ)

*Chương này có nội dung ảnh, nếu bạn không thấy nội dung chương, vui lòng bật chế độ hiện hình ảnh của trình duyệt để đọc.

Lý Ý Lan nói ra suy đoán của mình.

Giang Thu Bình phản ứng nhanh nhất, mới đầu thì ngớ ra, suy ngẫm một chốc sau đó vui mừng khôn xiết, nhủ thầm người này quả không hổ là huynh đệ ruột thịt của Thu Hào Quân Lý Di, nhanh nhạy tài trí, nhắm thẳng điểm then chốt, được trời sinh ra để làm cái nghề hình ngục này.

Y tươi cười nói: “Nghe đại nhân nói như thế, ta đột nhiên cảm thấy có lẽ không chỉ ba vụ này, mà cả năm vụ án đều có liên quan đến dây, ngẫm mà xem, vì sao bạch cốt có thể tự cử động?”

Trương Triều như thể có thần giao cách cảm với y, bình tĩnh tiếp lời: “Múa rối.”

Ngô Kim líu lưỡi: “Điều kiển xương người như rối gỗ ư?”

Vẻ mặt Ký Thanh nghiêm túc: “Cũng không phải không thể, cốt đầu (xương) hay mộc đầu (gỗ) thì đều là đầu mà, còn đỡ mất công chạm khắc nữa.”

Quận trưởng và sư gia giật giật mí mắt, câm nín với lời lẽ không tôn trọng người chết của Ký Thanh, song Vu sư gia tốt xấu gì cũng là cố vấn nha môn, có mấy phần thông minh tài trí, trong lòng ông ta có kiến giải khác, nhưng lại không tiện trực tiếp phản bác cấp trên, gương mặt cũng lộ vẻ lưỡng nan.

May mà Lý Ý Lan không phải người phi thực tế, hắn nói xong phỏng đoán, liền bắt đầu cân nhắc vấn đề thực tiễn, nói: “Bạch cốt viết chữ, nếu dùng tài múa rối cao siêu thì có vẻ cũng giải thích được, nhưng suy xét cẩn thận thì vẫn còn rất nhiều điểm đáng ngờ. Các ngươi xem, nếu là múa rối, vậy thì sợi dây điều khiển và người điều khiển đâu? Căn cứ theo lời khai của bách tính Nhiêu Lâm, ngoại trừ bà lão kia nghe thấy tiếng cơ quan, những người khác chẳng chú ý thấy gì cả.”

Giang Thu Bình tận lực cung cấp khả năng cho hắn: “Năm vụ án đều phát sinh ở nơi cực kỳ hỗn loạn, có lẽ kẻ này lẩn trốn rất kỹ, giỏi che giấu tai mắt người khác, hơn nữa còn có tài nghệ đặc biệt.”

Trương Triều ngắt lời: “Tạm xem như là có khả năng này đi, vậy thì xương cốt ngoại trừ biết động đậy, chúng còn phải xuất hiện ở năm loại hội lễ này nữa, chỉ dựa vào dây điều khiển rối thì không thể làm được.”

Giang Thu Bình vừa gật đầu vừa phản bác: “Nhưng cuối cùng chúng ta cũng tìm được một chỗ để điều tra, không phải sao?”

Kỳ Thanh nằm bò ra bàn, có chút hoang mang: “Múa rối thì có, nhưng chúng ta phải điều tra chỗ nào đây? Khắp Trung Nguyên nhiều nơi làm rối múa rối như vậy, chúng ta có điều tra đến chết già cũng chẳng xong.”

Cậu ta nói cũng có lý, nhưng không thể vì lẽ ấy mà ngồi không ở nhà được, manh mối sẽ không tự dưng xuất hiện, phải ra ngoài tìm kiếm thì mới có thể đến gần chân tướng hơn.

Lý Ý Lan khích lệ: “Đừng bi quan thế. Tiền đại nhân làm việc nhanh chóng, ngay hôm xảy ra vụ án đã lập tức phong thành rồi, nghi phạm rất có thể vẫn còn ở trong thành, chúng ta trước hết điều tra từ phòng thuế dịch ở cổng thành, xem xem có nghệ nhân nào mang rối gỗ vào thành hay không, mà biết đâu vừa ra khỏi cửa là lại có phát hiện mới ấy chứ.”

Giang Thu Bình bổ sung: “Ta cảm thấy xưởng gỗ trong thành cũng nên điều tra, nhỡ như đối phương lấy vật liệu ngay tại nơi này để tránh bị điều tra thì sao?”

Lý Ý Lan gật đầu, nhìn quanh bốn phía, nói: “Còn đề xuất nào nữa không?”

Mọi người lần lượt lắc đầu, Tạ Tài mãi chẳng có cơ hộ xen miệng vào, bấy giờ lập tức tiến lên nói: “Đại nhân, bây giờ hạ quan lập tức sai người đem danh sách phòng thuế dịch ở các cổng thành Đông, Tây và xưởng gỗ lớn nhỏ trong thành đến cho ngài.”

“Xin làm phiền,” Lý Ý Lan nói thêm, “Chỉ cần đem danh sách xưởng gỗ cho ta là được rồi, phòng thuế dịch thì thôi khỏi, ta muốn đích thân đến cổng thành một chuyến.”

Tạ Tài không biết hắn muốn đến cổng thành làm gì, song vẫn gật đầu nói: “Vâng, xin hỏi đại nhân định đi vào giờ nào? Hạ quan sẽ cho người chuẩn bị xe ngựa.”

Lý Ý Lan đang định trả lời thì ngực bỗng nghèn nghẹn khó thở, ho khù khụ một hồi mới nói: “Xe ngựa của nha môn dễ gây chú ý lắm, ta không dùng được, chuyện này để Ký Thanh lo, Tạ đại nhân cứ xử lý công vụ đi.”

Sau khi Tạ Tài rời đi, Lý Ý Lan bèn bảo sư gia dẫn bọn họ đến nhà lao một lần nữa, nghi phạm trong vụ tiết hàn y đang bị giam ở đó.

Sử Viêm ở một mình một gian, cách lớp song có thể nhìn thấy hắn đang nằm nghiêng co rúc trên chiếc giường gỗ, âm thanh xích sắt va chạm khiến hắn nép sát vào vách tường, dường như có hơi sợ hãi động tĩnh này.

Hắn vừa được dẫn ra, Ký Thanh liền hiểu người này sợ hãi cái gì.

Trên hồ sơ ghi Sử Viêm ba mươi sáu tuổi, nhưng bây giờ nhìn tận mắt, nói hắn năm mươi cũng có người tin, tóc hắn hoa râm, người gầy trơ xương, trên mặt, mũi, cổ, tay toàn là vết máu, ánh mắt nhìn chằm chằm bọn họ xen lẫn sự hoảng loạn tránh né, Lý Ý Lan ho một tiếng cũng dọa hắn run bắn cả mình.

Đây rõ ràng là dấu hiệu từng chịu trọng hình, mà càng mỉa mai hơn là, bởi vì bạch cốt án quá phức tạp, dù hắn nhắm mắt nhận bừa, cầu cho chết nhanh cũng chẳng được.

Lúc trừng phạt ngục tốt ở nơi này đều tham gia, người dẫn hắn thấy Lý Ý Lan không hiện rõ hỉ nộ, lòng chột dạ khiến bọn họ cho rằng sự im lặng này là giận dữ, bởi vậy càng không dám thở mạnh, trong ngục bỗng chốc lặng ngắt đến đáng sợ.

So với giận dữ hay bất ngờ, cảm xúc mãnh liệt nhất của Lý Ý Lan giờ phút này lại là bất đắc dĩ, hắn nhớ có một quý nhân từng nói câu này.

Thiên hạ quá lớn, bất cứ chuyện gì phát sinh, đều không thể tránh khỏi.

Hắn không gây khó dễ cho hai ngục tốt kia, chỉ xua tay bảo bọn họ lui xuống: “Lấy cho hắn cái đệm, mang cả chút cháo đến đây, sau đó đi làm việc của mình đi.”

Hai người thở phào nhẹ nhõm, chạy nhanh như trốn, còn lại Lý Ý Lan và bốn người sau lưng hắn, mỗi người dùng thần sắc bất đồng đánh giá phạm nhân đáng thương này.

Lý Ý Lan liếc nhìn chiếc ghế dài ở đối diện, bảo với Sử Viêm: “Ngồi đi.”

Sử Viêm từng bị ép buộc lẫn dụ dỗ, mở đầu theo kiểu ấm áp như gió xuân thế này cũng không phải chưa từng thấy, nhưng kết cục cuối cùng vẫn giống nhau, đều là một trận đại hình nhừ tử. Hắn nghe vậy thì lập tức quỳ xuống đất, tha thiết cầu xin: “Đại nhân tha mạng, lời, lời tiểu nhân nói đều là sự thật, dù nói một trăm lần, một ngàn lần thì vẫn vậy thôi, cầu xin đại nhân minh giám, giơ cao đánh khẽ!”

Khi nói đến cuối hắn đã phủ phục dưới đất, thanh âm run rẩy cùng cực, thậm chí còn nấc lên nghẹn ngào.

Chẳng ai ngờ hắn lại phản ứng dữ dội như vậy, cảnh tượng này rất mất khí khái nam nhi, nhưng từ những bất hạnh mà hắn gặp phải, mọi người đều sinh lòng thương xót.

Lý Ý Lan ôn hòa nói: “Ngươi nói thật thì ta sẽ không sai người đánh ngươi, đứng dậy đi.”

Để tránh những đòn roi mà Sử Viêm đã nói “sự thật” rất nhiều lần, hắn hoang mang không biết Lý Ý Lan là loại quan nào, cũng không biết người này muốn nghe loại lời nói nào, hắn chỉ sợ hãi đứng dậy, rúm ró ngồi xuống đối diện Lý Ý Lan, chuẩn bị chờ đợi người này xử lý.

Ánh mắt Lý Ý Lan chẳng hề dữ tợn, lực chú ý vẫn luôn đặt ở gương mặt Sử Viêm: “Theo như hồ sơ, ngươi nói kẻ chủ mưu bạch cốt án là ngươi, nhưng ngươi lại không nói ra được những manh mối chi tiết, tại sao?”

Sử Viêm lập tức đờ ra, bi ai phẫn nộ và vô lực chống cự bỗng chốc chiếm cứ đôi mắt hắn.

Đây là lần thứ hai hắn đối mặt với câu hỏi này, người đầu tiên hỏi hắn là thuộc quan của Tiền đề hình quan, lúc ấy Sử Viêm còn ôm chút hi vọng, liền kêu lên rằng thủ phạm không phải hắn, sau đó bị rút mười cái móng tay.

Chỉ cần còn sống, Sử Viêm sẽ không thể nào quên được cơn đau khủng khiếp ấy, hắn run lên khe khẽ, ngập ngừng nói: “Ta, ta quên rồi.”

Lý Ý Lan nhìn hắn, nhẹ nhàng lặp lại lần nữa: “Sử Viêm, ta muốn nghe lời nói thật.”

Sử Viêm luống cuống gục mặt xuống bàn, định quỳ xuống lần nữa, nhưng không hề biện giải cho mình. Hắn căn bản không phải phạm nhân, nhưng triều đình cần một phạm nhân, thế đạo khiến hắn trắng đen lẫn lộn, đâu còn biết nói thật nữa.

Nhưng thanh âm truyền đến từ đỉnh đầu lại khiến hắn bỗng nhiên òa khóc.

“Mặc dù trước mắt khả năng phá được án không lớn, nhưng đây có thể là cơ hội duy nhất trong đời để ngươi chứng minh sự trong sạch của mình, ta hỏi ngươi một lần cuối cùng, tại sao?”

Sử Viêm gục xuống bàn gào khóc một trận, không ai cắt ngang hắn, hắn bình tĩnh lại cũng nhanh, khi ngẩng đầu lên, trong mắt chứa đựng sự biết ơn sâu sắc, hắn dập đầu với Lý Ý Lan, hai mắt đỏ ngầu, nói bằng giọng khản đặc: “Tại vì không phải ta làm, ta…. Khụ, không, tiểu nhân muốn giải oan thì cũng phải có bản lĩnh ấy.”

Lý Ý Lan không tỏ vẻ gì, chỉ bảo hắn cẩn thận nhớ lại vụ án Vu Nguyệt Đồng năm xưa, cùng với việc những năm này hắn lẩn trốn ở bên ngoài, rồi bị bắt quy án như thế nào.

Vụ án theo lời khai của Sử Viêm trùng khớp với hồ sơ năm đó, quan trên phán sai, hắn cũng chỉ đơn giản lẩn trốn giữa phố thị, đi đến một xưởng đá ở huyện Ninh làm học trò, chi tiết lúc bị bắt cũng không có gì kỳ lạ.

“…..Có một vị khách trả hai lượng bạc đặt cọc, yêu cầu chúng ta làm một tấm bia đá đưa tới nhà, nhưng sau khi ta đưa tới thì mới phát hiện trong nhà người đó không có ai, trên đường trở về, ta bị bộ khoái tuần phố nhận ra.”

Lý Ý Lan không hỏi ra được điều gì bất thường, bèn dừng một chốc, bỗng nhớ ra Sử Viêm dù sao cũng coi như một người chuyên nghiệp, liền hỏi: “Hẳn ngươi cũng nghe qua về bạch cốt án ở Phù Giang, ta muốn hỏi ngươi một chút, bạch cốt bỗng nhiên chui ra từ trong bia đá, việc này có khả thi không?”

Sử Viêm không ngờ hắn lại đột nhiên hỏi vấn đề này, sau một hồi sửng sốt mới bắt đầu suy nghĩ, một lúc lâu mới trả lời: “Muốn giấu bạch cốt trong bia đá cũng không phải khó, chỉ cần đào một cái hốc ở chính giữa là được, nhưng muốn cho nó…. chui ra thì có vẻ không khả thi lắm.”

Giang Thu Bình kích động đập tay, mừng rỡ tự trách mình ngu dốt.

Dây điều khiển rối và đào hốc ẩn náu, cách thức bộ xương ở Phù Giang xuất hiện có hướng để suy đoán rồi.

Đúng lúc ấy, chăn đệm và cháo nóng được đưa vào, nhóm người Lý Ý Lan cũng không nán lại nữa, khi đi cũng vội vã như khi đến, bọn họ còn muốn tranh thủ đi tìm bà lão kia trước bữa trưa.

Trên đường, Giang Thu Bình phân tích: “Có lẽ trên khối ‘Niệm tử thạch’ của Phù Giang thật sự ẩn giấu một ít bí mật.”

Ký Thanh đã đọc quá nửa hồ sơ Phù Giang, cậu không đồng tình: “Đâu có giống, rất nhiều người nói rằng bộ xương kia chui ra phía trước bia đá, còn chặn cả chữ nữa, chứ không phải chui ra từ phía trên hay bên cạnh.”

Giang Thu Bình đương nhiên cũng biết, y cười nói: “Đằng nào cũng chẳng có gì làm, đi xem cũng đâu mất gì.”

Ký Thanh thầm mắng y trong bụng, chẳng có gì làm cái con khỉ, chủ nhân cậu bận đến nỗi chân không chạm đất, sắp thành con quay luôn rồi kia kìa.

Lý Ý Lan không hiểu tâm trạng cậu ta mà còn hùa theo Giang Thu Bình: “Đúng vậy, việc ở Phù Giang ta sẽ bảo Ký Thanh đi an bài.”

Còn về hoài nghi Hứa Biệt Thời sống hay chết, sáng nay hắn đã dùng bồ câu gửi thư đến Sùng Bình, nhờ đại tẩu mình hỗ trợ tìm hiểu.

Bà cụ sống ở đầu con hẻm bán thức ăn, cách nha môn không xa, bọn họ đi trên đường, còn chưa tới nơi đã thấy bà cụ ngồi bán than ở cạnh hàng vằn thắn, trong tay cầm kim khâu, đang khâu đế giày.

Tuy Lý Ý Lan mặc thường phục nhưng đi theo nhóm năm người, sẽ mang đến phiền phức cho bà lão, vì vậy nên hắn bảo Ký Thanh giả vờ mua than, dẫn bà cụ vào trong hẻm. Nhưng thông tin nghe được lại không khác mấy trên hồ sơ, ngoại trừ nghe thấy tiếng guồng quay tơ hư hư thực thực thì bà cụ này chẳng biết gì cả.

……

Ngày mùng năm tháng mười hai, giờ Mùi khắc một, Từ Bi tự, Kỷ Quá đường.

Liễu Nhiên phương trượng ngồi trên bồ đoàn, rót trà cho người ngồi đối diện: “Nghiêm Ngũ, lần này gọi con về là vì có việc muốn nhờ con làm.”

Nghiêm Ngũ là đệ tử tục gia đã thông qua mộc nhân hạng[1] trong chùa, tuy cao lớn thô kệch nhưng ngày lễ tết đều về chùa giúp đỡ, con người cũng tinh tế, được phương trượng tin cậy, cho nên lần này được gọi về để giúp Tri Tân.

Nghiêm Ngũ chắp tay, thần thái cung kính, ngữ khí hào sảng: “Xin phương trượng cứ nói.”

Phương trượng tươi cười lấy ra một bản vẽ, đưa cho hắn, bảo: “Mấy ngày nữa là pháp hội trong chùa, còn thiếu vật thờ cúng, con tương đối quen thuộc trong thành, làm phiền con tìm người chế tạo nhé.”

Nghiêm Ngũ nhận lấy bản vẽ, thấy trên giấy vẽ hai đứa trẻ chổng mông, đảo lộn dính vào nhau, kết hợp thành một món đồ quái dị, hắn thắc mắc: “Thưa phương trượng, đây là cái gì vậy ạ?”

Phương trượng cũng đang nhìn tờ giấy kia, càng nhìn càng thấy kỳ diệu, ông giải thích: “Đây là tứ hỉ nhân[2], hai đứa trẻ được ghép lại một cách tài tình, tạo thành bốn đứa, tượng trưng cho bốn việc vui trong hồng trần, chiêu phúc lai hỉ, là vật phẩm dùng để thờ cúng.”

Nghiêm Ngũ nhìn thì thấy đúng là thế thật, để ngang thì là hai đứa trẻ nằm sấp, dựng thẳng cũng là hai đứa, nhưng lại biến thành ngồi xổm lưng đối lưng, rất chi thú vị, hắn lật đi lật lại tờ giấy kia, cười nói: “Cái này phải chế tạo thế nào đây ạ?”

Phương trượng: “Thời gian cấp bách, cứ đẽo bằng gỗ là được, tìm lấy một vị sư phụ tay nghề tốt.”

Nghiêm Ngu nhận nhiệm vụ, vội vã xuống núi chuẩn bị.

Sau khi hắn đi rồi, Tri Tân mới từ nội đường bước ra, đôi mắt đượm vẻ bi ai, y bái phương trượng một cái, nói lời xin lỗi: “Xin lỗi, liên lụy phương trượng phải tạo khẩu nghiệp vì ta.”

Y không tiện đánh rắn động cỏ, vạn nhất để lộ tin tức, khiến kẻ trộm biết tăng nhân Từ Bi tự đã gần trong gang tấc, sợ rằng sẽ chuồn trước một bước, mà nếu ủy thác phương trượng đặt làm đồ thờ cúng thì sẽ bình thường hơn nhiều, bởi vì tứ hỉ nhân mặc dù không thường thấy, nhưng dù sao cũng không phải sáng tác độc môn của Siêu Cốc đạo nhân.

Loại người gỗ tí hon này đã có từ rất lâu, chỉ là đẽo gọt quá phức tạp nên nhiều thợ mộc mới không làm. Mà người có thể chiếm được《Mộc Phi Thạch Đàm Lục》thì nhất định phải khắc được, bởi vì trang đầu tiên của quyển đàm lục kia, chính là vẽ tứ hỉ nhân.

Phương trượng nói không sao, nhưng hai ngày sau, Nghiêm Ngũ mang đến một tin xấu.

“Trong thành không ai khắc được tượng gỗ này, đều nói là quá khó không làm được. Người thợ mộc duy nhất làm được thì bảy ngày trước ở nhà uống rượu quá chén, say quá mà chết.”

Tri Tân ở nội đường nhắm hai mắt tĩnh tọa, lòng bỗng sinh ra một loại trực giác, y đến không đúng lúc, nhưng dường như lại đúng lúc rồi.

******

★Chú thích:

[1]Mộc nhân hạng: Đệ tử Thiếu Lâm sau khi học xong tuyệt kỹ, phải thông qua thử thách “mộc nhân hạng” thì mới có tư cách xuống núi gia nhập giang hồ. Hòa thượng muốn xuống núi phải đi qua một hành lang dài, chiến đấu với 108 võ tăng. Để tránh thương tổn, họ thường mặc giáp gỗ lót bông dày, cho nên gọi là “mộc nhân”.

[2]Tứ hỉ nhân: là hình ảnh hai đứa trẻ đảo ngược ghép lại với nhau thành bốn đứa trẻ, tượng trưng cho “tứ hỉ”, tức bốn việc vui trong đời, bao gồm: nắng hạn gặp mưa rào, xa quê gặp bạn cũ, đêm động phòng hoa chúc, đề tên trên bảng vàng.

Bình luận

Truyện đang đọc