BA TRĂM NĂM KHÔNG GẶP THƯỢNG TIÊN

Ngày hôm ấy, trời vừa vào đêm ở thung lũng Đại Bi, gió lộng không ngừng, khói bụi mịt mù nơi nơi.

Ô Hành Tuyết trông thấy một bóng người rất cao đang lẳng lặng đứng giữa sương mù, dõi mắt về thung lũng rộng thê lương từ phía bên kia chiếc cầu treo.

Dáng hình ấy đã quá chi quen thuộc với chàng, dù không nhìn rõ mặt chàng vẫn biết đó là Tiêu Phục Huyên.

Tương tự vô vàn những lần trước đó, Ô Hành Tuyết xoay gót toan rời đi trước khi đối phương phát hiện ra. Thế mà chàng chỉ vừa bước hai bước đã thoáng ngửi thấy mùi máu.

Mùi máu khoác vẻ cô tịch trên bóng dáng Tiêu Phục Huyên, một dáng vẻ hiếm khi hiển hiện trên người y.

Ô Hành Tuyết ngừng bước.

Mãi lâu sau, chàng thở dài thật khẽ rồi quay người lại.

Chàng đắp lên người mình một lớp dịch dung khó bị phát hiện ra nhất, tiếp đó phủ một tầng trắng nhờ nhàn nhạt trên tròng mắt, và thậm chí còn vẽ một vết sẹo bên cạnh đuôi mắt.



Chàng ém hết tất cả khí kình tà ma lại, nhấc ủng giẫm lên mặt đất ghồ ghề sỏi đá ở thung lũng Đại Bi, vẳng ra tiếng sột soạt khe khẽ. Âm thanh ấy vang rất rõ trong bóng đêm, khiến cho người đang nhìn thung lũng hoang vắng ngoái đầu sang phía chàng.

Ô Hành Tuyết dừng chân chốc lát.

Chàng đứng trước ánh mắt đối phương, phủ lên mình một gương mặt xa lạ và cất lên giọng nói xa lạ, đóng giả thành người qua đường đang chuẩn bị băng qua thung lũng. Chàng nói, “Ta… ngửi thấy mùi máu bên này nên sang đây xem thử.”

Ánh mắt Tiêu Phục Huyên đọng lại thật lâu trên gương mặt chàng, xong mới rủ mắt liếc nhìn cánh tay mình.

Ô Hành Tuyết cũng nhìn qua chỗ đó thì thấy cánh tay cầm kiếm của y đang nhiễu máu tí tách mà không rõ vết thương nằm ở đâu.

Trong trí nhớ của chàng, rất hiếm khi Tiêu Phục Huyên đổ máu liên tục như vậy, trừ trường hợp linh thần y bị tổn thương nghiêm trọng. Ô Hành Tuyết nhìn đăm đăm vào vết máu cực kỳ nổi bật kia mà cảm thấy như bị dao đâm vào lòng.

Chàng cau mày thật khẽ đến độ khó lòng phát hiện ra, gắng giữ giọng mình bình tĩnh như người dưng gặp gỡ và bày tỏ lòng tốt một cách hững hờ. “Tay ngươi chảy máu rồi, bị thương phải không. Ta có mang sẵn một ít thuốc đây, nếu cần dùng…”

Còn chưa dứt lời, cánh tay Tiêu Phục Huyên đã nhích nhẹ. Dường như có một thủ thuật che mắt vừa được thực hiện nên ngay sau đó, máu chảy dọc khắp cánh tay đã hoàn toàn biến mất không còn tung tích.

Y cất giọng thờ ơ, “Không cần.”

Quả nhiên.

Ô Hành Tuyết thầm nghĩ.

Trong quá khứ, những người trên Tiên Đô đều nói Thiên Túc thượng tiên lạnh lùng xa cách, câu trả lời phổ biến nhất của y chính là “miễn” và “không cần”, để người ta không tài nào tìm ra cơ hội tiếp cận hay làm quen được.

Trước đây, Ô Hành Tuyết vẫn luôn thấy người ta chỉ cường điệu quá thể thôi. Tiêu Phục Huyên mà chàng biết chỉ lạnh nhạt bên ngoài, còn một khi bạn làm gì hay nói gì thì y đều sẽ đáp lời.

Đến ngày hôm nay, Ô Hành Tuyết mới ngỡ ra, dường như những lời miêu tả kia vốn dĩ không sai.

Chỉ với một câu “Không cần”, chàng đã không còn gì để nói tiếp.

Ô Hành Tuyết chớp nhẹ mi, lòng nhen nhói đôi phần hối tiếc. Chàng âm thầm cười tự giễu một phen, lúc ngẩng đầu lên thì gương mặt đã trở về bình thản. Thậm chí, chàng còn mỉm cười và hỏi vô cùng tự nhiên, “Thật sự không cần ư?”

“Ừm.”

“Thế ta không làm phiền nữa vậy.”

Tiêu Phục Huyên vẫn giữ nguyên ánh mắt mình trên mặt chàng. Khi nhìn nét cười ấy, không rõ vì sao y lại thoáng cau mày.

Ngay lúc Ô Hành Tuyết xoay người định rời đi, Thiên Túc một mực kiệm lời bất chợt mở miệng, hỏi với giọng trầm trầm, “Ngươi không định qua thung lũng à?”

Ô Hành Tuyết ngẩn người, ngoái đầu lại hỏi, “Sao cơ?”

“Ngươi đến đây chỉ để hỏi một câu có cần thuốc hay không chứ không phải để rời khỏi thung lũng à.” Tiêu Phục Huyên nhìn chàng với đôi mắt đen tuyền, giọng nói y còn kéo theo sương bạc bảng lảng vờn quanh trước mặt.

Bấy giờ Ô Hành Tuyết mới sực nhận ra — ở chốn hoang vu này về đêm thường xuất hiện những thứ xấu xa giả dạng thành người, bởi vậy có khiến người ta hỏi thêm một câu nữa cũng không kỳ lạ.

Chàng giữ nét mặt bình tĩnh, trả lời, “Ta có định đi qua, nhưng cần chờ đến sáng sớm mai đã.”

Chàng nói rồi còn hất cằm về hướng gần đó. “Ngươi nhìn xem, những người định qua thung lũng đều tập trung ở đấy còn gì.”

Ở phía đó chỉ có một túp lều dựng thành quán trà, trước lều điểm xuyết đèn lồ ng lấp lánh như ánh sao. Có những lúc xe ngựa đến đây mà không muốn băng thung lũng vào ban đêm nên ngừng lại ở quán này. Mọi người từ già trẻ lớn bé quây quần quanh những chiếc đèn lồ ng đuổi linh, đồng thời giắt ngựa đang phe phẩy đuôi nghỉ ngơi bên cạnh. Trong nhóm họ thường có một vài người có thể thi triển tiên thuật. Những người này giúp tuần tra khu vực xung quanh để đảm bảo an toàn.

Đây là những hình ảnh phổ biến thường gặp trong khu vực thung lũng Đại Bi này.

Bấy giờ, có một vài xe ngựa đang nghỉ ngơi phía xa xa của túp lều. Ô Hành Tuyết lựa chọn trang phục không khác gì những người tuần tra xung quanh nên vừa khéo có thể giả vờ mà không để bị phát hiện sơ hở gì.

Trả lời xong xuôi câu hỏi này, chàng cầm chắc trong lòng Tiêu Phục Huyên sẽ tin chứ không nghi ngờ nữa. Có điều đến lúc này, họ đã thật sự không còn gì để nói với nhau.

Ngay khi suy nghĩ đó nhen lên, Tiêu Phục Huyên lại tiếp tục nói. Giọng nói trầm thấp mơn theo gió đêm mà truyền sang, “Mắt ngươi bị sao vậy?”

Ô Hành Tuyết kinh ngạc, giơ tay lên sờ trong vô thức. Khi đụng vào vết sẹo gồ ghề bên cạnh đuôi mắt, chàng mới chợt nhớ ra mình đã chỉnh sửa một chút chỗ mắt này.

Tư lự chốc lát, chàng trả lời, “Trước đây ta từng bị thương nên để lại sẹo, tròng mắt cũng bị ảnh hưởng nên đôi khi xuất hiện màng trắng.”

Tiêu Phục Huyên: “Không phải ngươi mang sẵn thuốc bên người sao?”

Ô Hành Tuyết ngừng đoạn, ngẫm lại mới thấy đúng là có nhiều phương thuốc giúp chữa trị màng trắng với hiệu quả ngay tức thì thật. Nếu chính chàng đã nói trên người thường mang sẵn thuốc thì làm gì có chuyện bị bám trắng đến nhoà mắt.

Chàng thốt “Ờm” để che giấu sự lúng túng nhất thời của mình, đoạn lắc đầu và nói, “Phương pháp thông thường không hữu hiệu.”

Nói ra được lời mào đầu rồi thì đoạn sau đơn giản hơn rất nhiều.

Ô Hành Tuyết chỉ về lối vào hẹp và dài của thung lũng Đại Bi rồi nói, “Lần này ta cần qua bên kia thung lũng để tìm thầy xin thuốc chữa bệnh tại một tiên môn lớn hơn.”

Tiêu Phục Huyên lia mắt nhìn theo ngón tay chàng rồi lại dời tầm mắt về.

Ô Hành Tuyết những tưởng với tính cách của y thì chỉ “À” một tiếng rồi kết thúc cuộc trò chuyện. Không ngờ y lại tiếp tục cất giọng nhàn nhạt, “Nhà họ Phong ở Mộng Đô?”

Từ khi xuất hiện Chiếu Dạ thành, trên thế gian có thêm một ma đầu, các tiên môn dưới nhân gian lại đông thêm một chút. Tuy vậy những tên tuổi lẫy lừng nhất vẫn thuộc về các gia tộc cũ. Mà nhắc đến “tiên môn lớn hơn” theo hướng được chỉ thì phần lớn mọi người đều sẽ chọn nhà họ Phong.

Thế mà, Ô Hành Tuyết lại nheo mắt.

Những việc xảy ra trong vòng thời gian rối loạn khiến chàng không có ấn tượng tốt với nhà họ Phong lắm. Chàng phủ nhận, “Không phải.”

Hướng về phía đó nhưng không phải nhà họ Phong, chỉ còn một gia tộc khác cũng được nhiều người tìm đến, nhà họ Hoa. Vậy nên, Ô Hành Tuyết nói, “Ta đến Xuân Phiên thành.”

Tiêu Phục Huyên đáp “À” một tiếng.

Ô Hành Tuyết nhướn mày, thầm nhủ đây mới đích thị là Thiên Túc kiệm lời trong “lời đồn”. Thế rồi chàng nhớ lại dáng vẻ Tiêu Phục Huyên khi dõi mắt về vùng thung lũng thâm sâu ban nãy…

Chỉ cầm kiếm đứng bên vách núi thôi, mà sao vô cớ khiến người ta cảm thấy đau khổ muôn vàn.

Chàng không nén nhịn nổi, bèn hỏi, “Còn ngươi thì sao?”

Tiêu Phục Huyên dời mắt sang nhìn chàng.

Ô Hành Tuyết hỏi, “Ngươi đến thung lũng Đại Bi này để làm gì?”

Thực chất, Tiêu Phục Huyên hiếm khi trả lời những câu hỏi như vậy từ người khác. Những việc y làm cả đời này đều liên quan đến thiên chiếu nên không thể để lộ quá nhiều. Từ đó dẫn thành thói quen trả lời ngắn gọn cho tất cả mọi loại câu hỏi quanh quẩn trong “Có việc” hoặc “Không thể nói.”

Nhưng khi nghe Ô Hành Tuyết hỏi vậy, y lại lặng cả người, trông có vẻ hơi thất thần.

Một lúc lâu sau, y mới đáp, “Tình cờ ghé qua.”

Câu trả lời này quả thật không giống Tiêu Phục Huyên, con người y vẫn luôn nhanh gọn, tuyệt nhiên sẽ không bất chợt dừng chân ở một nơi mình tình cờ ghé ngang để ngắm nhìn quá lâu như vậy.

Ô Hành Tuyết rất muốn hỏi rõ hơn. Song hiện tại chỉ đóng vai người dưng như bèo nước gặp gỡ thì chàng lấy tư cách gì để hỏi bây giờ.

Bởi vậy mãi rất lâu về sau, chàng vẫn không biết rốt cuộc Tiêu Phục Huyên đứng lặng lẽ trước lối vào thung lũng Đại Bi vì lý do gì.

Chỉ mỗi mình Tiêu Phục Huyên mới biết…

Nguyên do y dừng chân phía trước lối vào thung lũng Đại Bi là vì trước đây y từng vô tình nghe kể câu chuyện về việc Vân Hãi mất mạng ở khu vực thung lũng Đại Bi. Lúc đó, Minh Vô Hoa Tín đã mang kiếm hạ phàm và ra tay sát phạt tà ma, sau đấy dựng nên một pho tượng thần cho Vân Hãi để tưởng niệm bên dưới lòng thung lũng Đại Bi này.

Rồi sau đó nữa, nghe đồn tất cả những vị tiên bị giáng xuống phàm đều có một pho tượng thần dưới đây.

Cả khu vực thung lũng Đại Bi tưởng chừng một nghĩa trang tĩnh lặng không ai hay biết, an táng những vị tiên chẳng một phàm nhân nào nhớ tới.

Tiêu Phục Huyên cũng không phải kiểu người đa sầu đa cảm, y không định vào quấy rầy bên trong. Thế nhưng, có đôi khi y bước ngang qua thung lũng thâm sâu và hoang vắng này rồi chợt nhớ đến những lời đồn đãi như “vị tiên bị phế truất xuống nhân gian” hoặc “không ai hay biết”, thì y lại không khỏi thẫn thờ, phải nán chân lại dõi vào thung lũng thâm sâu không thấy điểm cuối.

Chẳng rõ vì cớ gì mà mỗi lần đứng ở nơi này và nhìn về thung lũng Đại Bi mịt mờ sương khói, y luôn cảm thấy mình cũng nên tưởng niệm một ai đó…

Cảm giác ấy lạ thường và tràn đầy mâu thuẫn.

Chỉ cần đứng trước thung lũng Đại Bi, lòng y sẽ dấy lên đôi phần nhung nhớ. Song y hiểu rõ, niềm nhung nhớ ấy không dành cho bất kỳ một ai bên dưới lòng thung lũng cả.

Y không biết mình đang nhung nhớ ai, nhưng lần nào niềm nhung nhớ ấy nhen lên lại tựa như… đời này y sẽ không bao giờ vui vẻ được nữa.

Mà mỗi khi suy nghĩ ấy bất chợt nảy ra thì y lại gặp được ma đầu Ô Hành Tuyết người đời đều biết ở phương nam xa xăm.

Rồi về sau, phải có đến gần sáu mươi năm y bị cuốn vào guồng công việc tại Thương Lang Bắc Vực nên không còn dịp đến nhân gian nữa.

Lần này ghé thung lũng Đại Bi đã gần đến năm Thanh Hà thứ hai trăm.

***

Ban đầu, Ô Hành Tuyết chỉ định giả vờ một lúc, đợi đến khi Tiêu Phục Huyên “tình cờ ghé ngang” rời khỏi, chàng sẽ tháo bỏ lớp dịch dung rồi quay lưng băng qua thung lũng để đi về hướng khác.

Vậy mà thế sự cứ mãi nằm ngoài dự đoán của chàng.

Ngày hôm ấy, thung lũng Đại Bi xảy ra chấn động bất thường. Không biết việc này do lũ vật tính âm gây nhiễu hay sao nhưng nhìn chung tình hình có hơi nguy hiểm. Vì vậy, Thiên Túc thượng tiên đã thay đổi ý định và ở lại bên rìa thung lũng Đại Bi một đêm.

Y không rời đi, Ô Hành Tuyết cũng chỉ còn cách diễn cho trót mấy lời lừa gạt để làm an lòng người khác và phải giữ nguyên dáng vẻ giả mạo kia mà nghỉ ngơi một đêm ở quán trà dựng bằng lều.

Nhờ ơn trời nên quán trà có kha khá xe ngựa, một chiếc trong đó vừa khéo giúp chàng che khuất mấy chiếc đèn đuổi linh bao quanh nhóm người.

Đường đường là thành chủ của Chiếu Dạ thành mà thậm chí còn không có cả một chiếc giường, phải ngồi chống đầu bên cạnh một chiếc bàn vuông, lắng nghe những lời tán gẫu chữ được chữ mất của nhóm người đang hối hả lên đường. Ấy thế mà cảm giác tự tại hơn ở Tước Bất Lạc rất nhiều.

Chàng híp khẽ đôi mắt dài và nhìn những người kia một cách biếng lười, trong lòng hiểu rõ ở phía trên nóc túp lều tranh này có một người đang âm thầm ngồi trấn giữ và bảo vệ cả khu vực này.

Đó là người đã từng ước hẹn… một trăm năm, ba trăm năm, hay lâu hơn thế nữa cũng sẽ đồng hành cùng chàng.

Họ đã từng hôn nhau dưới bầu trời giăng kín những vì sao, tương tự những đôi tình nhân vĩnh viễn chân thành chốn nhân gian.

Ấy mà chớp mắt, hai trăm năm đã trôi qua.

***

Sáng sớm hôm sau, những cỗ xe ngựa nghỉ chân quanh túp lều dựng thành quán trà lần lượt xuất phát, trên xe chở hàng hoá và những bá tánh muốn băng qua thung lũng. Chuỗi xe nối thành một hàng dài dọc theo con đường hẹp dẫn vào thung lũng.

Ô Hành Tuyết thầm than thở, tự nhủ trong lòng một ngày một đêm vừa rồi sao mà vô thực. Dù vậy chàng vẫn cất bước đi theo đội xe ngựa kia, lững thững băng qua thung lũng Đại Bi.

Có đôi khi bóng chim vô tình lướt sang, chàng sẽ vươn tay chắn ánh sáng và ngẩng đầu lên. Dù không thấy bóng người nhưng chàng biết Tiêu Phục Huyên đang ở trên đỉnh vách núi ấy.

Trong đội xe ngựa có cả người già trẻ nhỏ nên họ di chuyển rất chậm, tốn gần hết cả ngày mới đi đến bên kia thung lũng dài dẵng này.

Đa phần mọi người đều muốn đến thành chủ Mộng Đô, ngoài ra có một số ít rẽ sang nhánh nhỏ để đến Xuân Phiên thành.

Ô Hành Tuyết vẫn không tỏ vẻ vội vã. Khi nhóm người bước qua cổng Xuân Phiên thành, những người khác đều nhanh chóng hoà mình vào những ngỏ hẻm dọc ngang rồi mất dạng.

Chỉ mình Ô Hành Tuyết thoáng ngừng bước chân…

Vì từ bên khoé mắt, chàng trông thấy một bóng người cao cao đang ôm kiếm tựa lưng vào bờ tường đá xanh dựng thành hẻm nhỏ. Chàng đã định tỏ vẻ không nhận ra, song đã thoáng ngừng bước chân rồi mà giờ còn giả vờ sẽ lộ sơ hở mất.

Bởi vậy, chàng dừng bước và quay sang nhìn con hẻm hẹp phía bên kia.

Chàng ra chiều không biết, thắc mắc hỏi Tiêu Phục Huyên, “Ngươi cũng đi cùng đội xe ngựa tới đây à, sao suốt dọc đường ta không thấy ngươi.”

Tiêu Phục Huyên không trả lời mà nói, “Ngươi nghỉ chân ở nhà họ Hoa à?”

Ô Hành Tuyết suy nghĩ rồi đáp, “Không phải, hôm nay đi ngoài đường lâu quá nên bụi bặm bám hết mặt mày rồi, thật sự bê bết không chịu được. Hôm nay ta phải nghỉ ngơi chỉnh trang rồi mai mới đến làm phiền họ.”

Tiêu Phục Huyên liếc mắt ra bên ngoài hẻm, thấy có quán trọ cách đó không xa.

Ô Hành Tuyết nhìn y, bất chợt hỏi, “Sao ngươi cũng đến Xuân Phiên thành?”

Tiêu Phục Huyên hơi cau mày rồi lại thả lỏng, nói, “Xem như… để cảm tạ phần thuốc ngươi định đưa ta.”

Ô Hành Tuyết ngẩn người.

Vào một khoảnh khắc nào đó, chàng tưởng chừng mình nhen lên ảo tưởng, nhất là những thời điểm mà Tiêu Phục Huyên tiếp lời tất cả những điều chàng nói. Chàng suýt đã quên rằng hiện tại mình là tên ma đầu khét tiếng của Chiếu Dạ thành.

Tiêu Phục Huyên đưa chàng đến tận đây còn vì mục đích nào khác nữa?

So với việc nghi ngờ thân phận chàng thì câu “cảm tạ cho thuốc” đã là câu trả lời tốt lắm rồi. Với tính cách của Tiêu Phục Huyên thì hành xử như vậy cũng hợp lý.

Ô Hành Tuyết đáp “Ồ” rồi mỉm cười.

Chàng thấy Tiêu Phục Huyên nhìn mình một chốc rồi trầm giọng, “Ta còn có việc, ngươi—”

Không biết vì sao mà Tiêu Phục Huyên dừng đoạn, lại nói, “Thôi, ta đi trước đây.”

Ngay khi câu nói kết thúc, bóng hình y biến mất giữa con hẻm dài.

Ô Hành Tuyết đứng nguyên tại chỗ rất lâu, cảm thấy đối phương đã đi khỏi thật rồi mới thả lỏng cơ thể đang gồng cứng. Luồng hơi thở kia đang di chuyển dần về phía bắc. Còn chàng chờ đến khi hơi thở ấy đã mất tăm mới ngước mắt lên nhìn về phía bắc.

Trời đã hoàng hôn, ráng đỏ phủ ngợp cả bầu trời, những con đường hướng về Xuân Phiên thành đều nhuốm sắc đỏ nhàn nhạt.

Ô Hành Tuyết đứng giữa một trong những con đường ấy, cởi dần dịch dung.

Thực chất, đã lâu lắm rồi chàng không nói chuyện với người ta nhiều đến bực này, và cũng không chỉ qua một khoảnh khắc thôi đã nhướn mày hay lộ nét cười. Tâm trạng chàng đã vui vẻ hẳn lên trong nhất thời ấy. Để rồi hiện tại, khi tháo bỏ lớp dịch dung, nét mặt chàng lại dần hiện vẻ mệt nhoài.

Chàng hàn huyên cùng người đã từng thân mật khắng khít, vậy mà phải đóng giả người dưng.

***

Khi rời khỏi Xuân Phiên thành, chàng nhận được thư từ Chiếu Dạ thành.

Mấy kẻ được xưng là “thuộc hạ” chàng đến Tước Bất Lạc, thấy cả phủ trạch rỗng không bèn truyền thư đến hỏi, “Thành chủ đi đâu vậy ạ?”

Chàng lười không buồn trả lời, chỉ xoa nhẹ đầu ngón tay. Tấm thư tan biến thành tro tàn.

Chàng nhủ trong lòng: Ai mà biết.

Ô Hành Tuyết ra ngoài là có việc cần làm thật, chàng muốn đi tìm người…

Năm xưa, chàng có để lại dấu ấn không ảnh hưởng đến cục diện trên người hai tiểu đồng tử. Dấu ấn này không có tác dụng gì đặc biệt ngoài việc giúp chàng cảm nhận được hai đứa trong trường hợp sau này chúng đầu thai thành người.

Tốt xấu gì cũng đã theo chàng lâu đến thế…

Lần này chàng ra ngoài cũng vì phát hiện được động tĩnh của dấu ấn nọ. Xét trên lý thuyết thì ắt hẳn là hai đứa nhỏ đầu thai thành.

Dấu ấn nọ chia làm hai hướng, một cái đang ở thôn làng nào đó gần biển Vô Đoan, cái còn lại ở ngoại ô phía nam Miện Châu. Nói chung… dấu nào cũng cách Xuân Phiên thành tận mấy ngàn dặm.

Chàng cũng chẳng có dự định gì mà chỉ muốn đến nhìn xem tin tức của chúng là được.

Không ngờ, khi Ô Hành Tuyết tới nơi thì hai dấu vết ấy đã biến mất.

Trong dân gian tương truyền rằng trẻ con sinh ra vào những ngày rét đậm giữa đông rất dễ chết non và khó nuôi. Mà hai cậu nhóc kia đều sinh ra ở phương bắc lạnh giá, vào gia đình không khấm khá lại còn đông con. Thành thử chỉ vừa ra đời chúng đã yểu mệnh.

Khi Ô Hành Tuyết tìm đến nơi thì chỉ còn thấy nấm mồ nho nhỏ giữa ngàn dặm tuyết phủ.

Thậm chí, hai gia đình ấy còn không hề biết rằng, vào cái đêm họ lau nước mắt, ma đầu khét tiếng nọ đã đến phía sau nhà họ và âm thầm đặt kẹo đậu phộng mà trước đây hai tiên đồng rất yêu thích cạnh bên nấm mồ mới dựng.

***

Sau đó, Ô Hành Tuyết vẫn thường thả bùa tìm người ra ngoài. Chàng gấp giấy thành hình người hoặc hình chim, hai con dùng để tìm kiếm dấu vết đầu thai của hai tiểu đồng tử, còn một con… để truy vết Thiên Túc thượng tiên.

Ý định ban đầu của chàng là muốn sớm tìm ra tung tích hòng tiện bề tránh né.

Ấy thế mà bùa tìm người của chàng cứ mãi vô hiệu đối với Tiêu Phục Huyên, để rồi chàng vẫn chạm trán đối phương khắp nhân gian.

Có đôi lúc chàng không kịp né đi, còn có đôi lúc bởi những nguyên nhân khó lòng tả rõ. Âu có lẽ khó tránh khỏi số mệnh. Chẳng biết từ thời điểm nào đó mà mỗi lần gặp được Tiêu Phục Huyên, Ô Hành Tuyết đều khoác lên mình một lớp dịch dung khó lòng nhận ra nhất.

Chàng mang trên người dáng vẻ và ngoại hình khác nhau, giống như lần gặp gỡ ở thung lũng Đại Bi. Qua những năm tháng đó, chàng trở thành một người qua đường với những khuôn mặt khác nhau bên cạnh Tiêu Phục Huyên.

Có những lúc, nhìn thấy dáng bộ cao ngạo mà lẻ loi của đối phương khiến lòng chàng đau xót. Có những lúc, chàng phát hiện đối phương bị thương nên không khỏi lo lắng trong lòng.

Vào những thời điểm như vậy, chàng đều sẽ khoác dáng vẻ một người xa lạ và bước sang bắt chuyện với Tiêu Phục Huyên.

Đứng trước mặt bá tánh, dường như Thiên Túc thượng tiên hoà nhã hơn chút so với khi ở cùng chúng tiên trên Tiên Đô. Thế nên thật lạ kỳ, dù Tiêu Phục Huyên nổi tiếng khó gần nhưng lần nào gặp nhau họ cũng trò chuyện sôi nổi, và lần nào bên nhau cũng tương đối vui vẻ.

Song những lúc ấy vui vẻ biết bao nhiêu, thì sau đấy Ô Hành Tuyết sẽ lặng lẽ đi bấy nhiêu.

Những năm ấy, Thiên Túc bận rộn trong công vụ, số lần bước chân đến nhân gian chẳng tính là nhiều, thường thường chớp mắt đã năm năm, chớp mắt đã mười năm.

Cứ thế, trạng thái ấy đã kéo dài rất lâu…

Lâu đến mức Ô Hành Tuyết tìm ra dấu tích đầu thai của hai tiểu đồng tử kia một lần nữa. Lâu đến mức chàng đã đến hẳn hai địa điểm tách biệt để nhặt hai kẻ khốn khổ và đưa về Tước Bất Lạc.

Hai người họ trở thành hai cư dân thường trú còn lại của Tước Bất Lạc, giống như ở Toạ Xuân Phong năm xưa.

Hai người họ một tên Ninh Hoài Sam, một tên Phương Trữ.

Phương Trữ trước đây là anh trai, tính tình điềm đạm hơn chút đỉnh và thường giữ cho Tước Bất Lạc được trật tự ngăn nắp. Còn Ninh Hoài Sam hiếu động hơn hẳn nên thường theo Ô Hành Tuyết ra ngoài…

Thi thoảng, cậu đi theo lúc chàng gặp gỡ Tiêu Phục Huyên.

Rồi mãi sau, Ninh Hoài Sam vẫn không hiểu được lý do vì sao thành chủ luôn có vẻ buồn bã sau khi nhìn thấy Thiên Túc thượng tiên. Có những lúc còn lặng người đến mấy ngày liền…

Nếu gặp mặt khiến tâm trạng trở nên tệ như vậy thì không phải cứ tránh đi là được rồi sao?

Tiếc rằng, cậu không dám cả gan đi hỏi thẳng Ô Hành Tuyết. Nhưng dù có hỏi cũng sẽ không nhận được câu trả lời.

Vì thành chủ nhà cậu cũng không cách nào giải thích cho cậu hiểu rằng tâm trạng chàng mỗi lần gặp mặt Tiêu Phục Huyên chẳng tệ chút nào, mà chính vì chẳng tệ chút nào nên mới khiến chàng càng sa sầm hơn cả…

Bởi mỗi lần cười đùa cùng Tiêu Phục Huyên, chàng đều mang gương mặt của bất kỳ một người nào trên thế gian này, chỉ trừ của chính bản thân.

Chàng mang dáng vẻ của rất nhiều người xa lạ khác nhau và xưng những cái tên chọn bừa. Sáng hôm nay vui cười mấy câu, sang hôm sau đã chìm vào dòng người, không chạm mặt nhau nữa.

Chàng có thể là bất kỳ một ai bước ngang trên phố, chỉ không thể là thành chủ Chiếu Dạ thành Ô Hành Tuyết.

Chàng thật tỉnh táo, nhưng không tránh khỏi xót xa.

Có một lần, chàng tưởng rằng câu chuyện này sẽ tiếp diễn tương tự những dòng thời gian rối loạn chàng phải chém đứt theo lệnh thiên chiếu năm nào — vô vọng không hồi kết.

Cho đến một lần tương ngộ…

***

Lần đó, Ô Hành Tuyết cảm thấy một nửa linh phách thần mộc có biến động. Tuy biến động không rõ ràng lắm nhưng vẫn khiến chàng không yên tâm muốn đến xem thử. Thế là chàng đến bên bờ biển Vô Đoan.

Bờ biển Vô Đoan hôm ấy chẳng hề yên bình. Không biết sao mà có một nhóm đệ tử tiên môn đang tụ tập. Bọn họ đều bị thương, có một số đang giúp lẫn nhau, một số khác ngồi xếp bằng tại chỗ, ngoài ra còn có một số khác cầm theo túi gấm rảo khắp nơi để phát thuốc cho đệ tử của các môn phái khác nhau.

Bọn họ chiếm cứ toàn bộ khu vực bến thuyền và pháo đài trên mặt nước. Khung cảnh xác xơ đến độ có phần hỗn loạn.

Ô Hành Tuyết loáng thoáng nghe họ nói đủ mọi loại chuyện và bắt được mấy chữ linh tinh như “tà ma quấy phá”. Chàng cũng không lấy làm ngạc nhiên, gần cả trăm đệ tử tiên môn bị thương thì nguyên nhân chắc cũng không đến nỗi là do cả đám bọn họ đánh nhau mà ra.

Điều khiến chàng thắc mắc là danh tính kẻ gây rối này.

Mọi người đều biết bên ngoài cổng Chiếu Dạ thành có treo đèn thanh minh hộ vệ, mỗi chiếc đèn đều do Ô Hành Tuyết đích thân làm nên. Bọn họ cũng biết hiệu dụng của đèn thanh minh là nhằm ngăn chặn những người bên ngoài xâm nhập vào Chiếu Dạ thành. Nhưng không một ai đoán được rằng Ô Hành Tuyết cũng dùng những chiếc đèn ấy để theo dõi động tĩnh của tà ma trong thành.

Chàng biết rõ ngày nào có tà ma nào ra khỏi thành, tà ma nào vào trong thành.

Chàng vẫn còn nhớ hai ngày này, số tà ma rời khỏi thành có thể đếm được trên đầu ngón tay, và chúng không đi về phía biển Vô Đoan. Huống chi, những tà ma rời thành cũng không phải hạng có thể gây phiền hà nghiêm trọng, ít nhất không đến nỗi gây ra cơ sự thế này cho gần cả trăm đệ tử.

Có điều, chẳng mấy chốc chàng đã không còn tâm trí đâu mà suy xét xem đây là do tà ma nào gây ra nữa, bởi toàn bộ bến đò đã rơi vào tình trạng còn hỗn loạn hơn…

Mấy đệ tử đã uống thuốc giảm đau lần lượt rên lên trong đau đớn, thậm chí còn có người bị đau đến mức lăn bò ra đất mà nhe răng trợn mắt.

Những đệ tử còn lại sợ hãi quá độ không dám uống nữa. Đệ tử đang phát thuốc cũng sựng người dừng động tác, trên tay hãy còn cầm bao thuốc đầy còn gương mặt tràn vẻ thảng thốt.

Đệ tử nọ mở túi thuốc ra, mùi thuốc men theo gió thổi sang. Ô Hành Tuyết chứng kiến những cảnh tượng tương tự quá nhiều lần trong mấy năm gần đây nên chỉ thoáng ngửi qua là hiểu rõ nguồn cơn vấn đề.

Chàng vốn có thể ngó lơ hết thảy, song khung cảnh hỗn loạn này ầm ĩ đến mức khiến chàng nhức cả đầu. Chưa kể chàng còn phải băng qua bến thuyền này.

Bởi vậy, chàng khẽ lắc đầu, giấu thân thể mình đi rồi phóng lên một mái nhà cao cao bên trên pháo đài trên nước.

Ô Hành Tuyết đứng ở mái hiên, cởi túi gấm đeo bên hông ra rồi đưa ngón tay thon dài vào trong khều vài lần.

Đúng lúc đó, một tiếng động khe khẽ đột ngột vang lên trên mái hiên.

Ngay khi nghe tiếng vỏ kiếm khẽ khàng đánh vang, Ô Hành Tuyết hơi sượng ngón tay đôi chút. Chẳng cần ngoái đầu nhìn, chàng cũng biết mình chạm trán ai.

Hương vị quá đỗi quen thuộc của Thiên Túc được gió đưa sang, đồng thời còn pha lẫn vị máu nhàn nhạt.

Lại là vị máu.

Vì sao lúc nào bị thương vậy chứ…

Ô Hành Tuyết nhắm mắt lại. Tiếng vỏ kiếm đánh vang dừng lại cạnh người chàng, giọng hững hờ của Tiêu Phục Huyên vang lên, “Ở dưới kia đông người như vậy, tại sao ngươi lại đứng trên mái nhà?”

Ô Hành Tuyết mở mắt ra, thấy như có gì đó đang ngoáy chặt trong tim, nhưng nét mặt chàng vẫn hoàn toàn bình thản.

Hiện tại, chàng đang đắp một lớp cải trang mà thần quỷ cũng khó lòng phân biệt được, đây là một dáng vẻ hoàn toàn xa lạ như bao lần. Dùng giọng một người dưng, chàng nói, “Lên đây giúp một chút việc. Thế còn ngươi, ngươi là ai mà sao lại ở trên mái nhà?”

Nói rồi, chàng mới quay mặt sang nhìn người đang đứng bên cạnh mình.

Bẵng một thời gian không nhìn thấy, dường như Tiêu Phục Huyên đã ốm hơn xưa. Viền mi và cánh mũi càng thêm rõ nét, hốc mắt cũng sâu hơn. Không biết có phải mùi máu ấy đã ảnh hưởng đến y hay không mà trông gương mặt y đượm chút mỏi mệt hiếm gặp. Dầu vậy, sự mệt mỏi đó nhỏ nhoi tới mức gần như không tồn tại, nó chìm hẳn trong khí chất sắc bén bao bọc quanh người y.

Y rủ hàng mi mỏng, lướt nhìn xuống bến đò rồi quay sang Ô Hành Tuyết.

Ánh mắt y dừng lại trên gương mặt Ô Hành Tuyết hồi lâu. Y không trả lời câu hỏi “Ngươi là ai, tại sao lại ở trên mái nhà”, mà liếc nhìn viên đan trong tay Ô Hành Tuyết, trầm giọng hỏi, “Giúp đỡ gì? Đưa thuốc à?”

Ô Hành Tuyết nhìn y một lượt nhưng không thấy vết thương cụ thể, còn mùi máu đã nhạt đi rất nhiều trong gió. Bấy giờ chàng mới trả lời, “Đại loại thế, nói đúng hơn là ta muốn ngầm đổi thuốc. Bọn họ bị tà ma làm bị thương, uống loại thuốc kia phải chịu tác động của thuỷ triều nên dẫn đến tác dụng phụ, thành thử mới r3n rỉ như vậy.”

Tiêu Phục Huyên cất giọng thờ ơ, “Ngươi tính ngầm kiểu gì?”

“…” Ô Hành Tuyết nghẹn lời.

Ban đầu, chàng dự định lướt qua giữa những người kia mà không để bất kỳ một ai phát hiện ra, rồi xuất chiêu nhẹ hơn cả làn gió. Chỉ là đổi thuốc thôi thì có thể gây khó dễ cho ma đầu khét tiếng như chàng hay sao.

Ngặt nỗi, Tiêu Phục Huyên xuất hiện khiến chàng không cách nào làm vậy được nữa. Nói cho cùng, một đệ tử tiên môn tầm tầm hay một tà ma thường thường không thể có năng lực cao như vậy.

Thế nên, Ô Hành Tuyết mới làm bộ nghĩ ngợi, đoạn hỏi Tiêu Phục Huyên, “Sơ xuất quá, đúng là ta không làm được. Ngươi thì sao? Ngươi thuộc môn phái nào? Có cách nào giữ những người dưới kia lại hay không?”

Tiêu Phục Huyên hỏi, “Bao nhiêu?”

Ô Hành Tuyết: “Tất cả.”

Tiêu Phục Huyên hững hờ “À” một tiếng. Ngay thời điểm âm thanh cất lên, tất cả những người trong khu vực bến đò đều cứng đờ lại, không còn động đậy gì nữa.

Ô Hành Tuyết nhướn mày, đoạn tiếp tục lục lạo túi gấm.

Lục hết một vòng rồi, chàng lặng lẽ ngẩng đầu.

Ánh mắt Tiêu Phục Huyên vẫn giữ nguyên trên mặt chàng. Trông thấy dáng vẻ “ối toi rồi” của chàng, y mấp máy môi, “Chuyện gì?”

Ô Hành Tuyết nói, “Không đủ thuốc rồi.”

Tiêu Phục Huyên: “Có bao nhiêu?”

Ô Hành Tuyết: “… Mười viên.”

Tiêu Phục Huyên: “?”

Dưới kia có gần trăm người đang chờ nhận thuốc, mà chàng chỉ mang mười viên. Thiếu kiểu này thiếu hơi bị nhiều đấy. Song, thứ thú vị hơn cả lại là nét mặt của Tiêu Phục Huyên.

Trước khi bản thân kịp nhận ra, Ô Hành Tuyết đã siết túi gấm và bật cười.

Đến khi chàng cười đã rồi ngước mắt lên mới nhận ra Tiêu Phục Huyên đang nhìn mình.

Ô Hành Tuyết dừng bặt.

Thoáng chốc, cả mái hiên rơi vào tĩnh lặng.

Ô Hành Tuyết mấp máy môi, nói, “Có chuyện gì thế?”

Tiêu Phục Huyên thu tầm mắt về rồi trả lời, “Không có gì. Không đủ thuốc vậy ngươi tính thế nào?”

Ô Hành Tuyết cụp mắt nhìn sơ qua túi gấm một chốc, nói, “Thì chỉ còn cách tung chiêu thiệt hại thôi.”

Tiêu Phục Huyên: “Hửm?”

Ô Hành Tuyết chỉ tay vào nhóm đệ tử tiên môn đang cứng đờ bất động mà hỏi, “Có cách nào khiến bọn họ hé miệng một chút không?”

Dĩ nhiên chàng biết Tiêu Phục Huyên có cách.

Thật vậy, ngay khi vừa kết thúc câu nói, gần cả trăm đệ tử tiên môn đồng loạt mở miệng dù vẫn tiếp tục bất động. Khung cảnh ấy vừa cực kỳ ấn tượng lại vừa vô cùng buồn cười.

Đúng là có thiệt hại chút đỉnh.

Ô Hành Tuyết cười giòn chốc lát mới quay sang nói với Tiêu Phục Huyên, “Ta xuống dưới trước đây.”

Nói rồi, chàng nhảy xuống từ trên mái hiên cao, hệt như một áng mây lững lờ ghé ngang. Tiêu Phục Huyên đứng bên rìa mái hiên, rủ mắt nhìn áng mây lững lờ kia yên ả đáp xuống mặt đất. Hồi lâu sau, y mới xoay người nhảy khỏi góc mái.

Ô Hành Tuyết biến mười viên thuốc đan kia thành lá bùa, tiếp đó vo mấy lá bùa ấy rồi đốt thành tro mịn. Xong xuôi, chàng lướt qua gần trăm cậu đệ tử và rải chút tro giấy vào miệng của từng người một.

Đang rải tro giữa chừng, chàng chợt dừng bước, quay đầu lại hỏi Tiêu Phục Huyên, “Mấy người này không thấy ta đấy chứ?”

Tiêu Phục Huyên: “Có việc gì à?”

Ô Hành Tuyết nói, “Cũng không có gì, ta chỉ sợ họ nhớ kỹ dung nhan rồi lại tưởng mình bị đùa bỡn và truy tìm tới cửa.”

Thật ra, dù họ có nhớ kỹ cũng chả hề gì bởi dung mạo chàng dùng là hàng giả, nhớ rồi cũng chẳng có chỗ nào mà tìm. Thế nhưng khi lướt qua các đệ tử đặng nhìn Tiêu Phục Huyên, chàng sực nhớ về nét mỏi mệt thoáng đượm ban nãy của người kia.

Chàng lặng đi trong giây lát, đoạn cất bước đi đến trước mặt Tiêu Phục Huyên. Chàng nói, “Phải cần có đồng phạm, không thể để ta bị nhớ một mình được. Đưa tay đây nào.”

Đôi mắt rủ hờ của Tiêu Phục Huyên nhìn sang chàng, có phút chốc tưởng chừng y muốn nói gì đó. Mà cuối cùng y chỉ mấp máy môi im lặng. Sau một lúc, y xoè bàn tay sang cho Ô Hành Tuyết.

Ô Hành Tuyết nhìn bàn tay đã một thời nắm lấy giữa vô vàn thời điểm thân mật, lòng chàng bỗng thấy rối rắm biết bao.

Lạ kỳ thay, hơn hai trăm năm đã qua, mà chàng vẫn không khỏi ham thích trêu chọc người kia. Chàng muốn nhìn Thiên Túc vẫn một mực “lạnh lùng khó gần” phá lệ hết lần này đến lần khác. Thế rồi khi Tiêu Phục Huyên thật sự phá lệ, chàng lại chẳng thấy hào hứng gì.

Bởi lúc này đây, chàng — người khiến Tiêu Phục Huyên phá lệ — đang khoác một gương mặt xa lạ, mang một cái tên xa lạ. Đó là một ai khác chứ không phải Ô Hành Tuyết.

Ô Hành Tuyết đứng yên một chốc. Chàng nhoẻn miệng, song đôi mắt vẫn mãi cụp xuống. Chàng đưa phần tro bùa còn lại cho Tiêu Phục Huyên, cất giọng nhuốm ý cười, “Phần còn lại nhờ ngươi.”

Cho đến khi Tiêu Phục Huyên đã đi xa xa rồi, Ô Hành Tuyết mới ngước mặt dõi về hướng ấy.

Nét mặt chàng bình thản, nhìn không nhận ra dấu hiệu bất thường nào.

Hễ chàng không muốn thì dường như từ xưa đến nay không một ai sẽ nhận ra manh mối.

Tiêu Phục Huyên rải phần tro bùa cuối cùng lên một đệ tử trẻ, đoạn ngước mắt thoáng nhìn sang bên này. Ô Hành Tuyết lập tức hiểu rõ, bèn mỉm cười né mình ra mặt sau vách pháo đài trên nước.

Tiêu Phục Huyên vừa ra tay, những đệ tử trẻ tiên môn tức khắc thoát khỏi tình trạng bất động và khôi phục trạng thái bình thường. Họ mím môi theo bản năng, chỉ cảm nhận vị đăng đắng khó tả trong miệng. Nhưng họ còn chưa kịp trỗi lên nghi ngờ thì những người r3n rỉ nằm oài trên đất đã kinh ngạc hô lên trong mừng rỡ, “Hình như… đỡ hơn rồi!”

Những người khác cũng nhanh chóng nhận ra trên mặt vết thương do tà ma để lại không còn ra máu như thác đổ với khí đen lởn vởn nữa. Miệng vết thương đã dần dà khép lại.

Ô Hành Tuyết tựa lưng vào tường, lắng nghe nhóm đệ tử tiên môn xôn xao bàn luận rồi í ới gọi nhau chuẩn bị rời khỏi bến thuyền.

Chẳng mấy chốc, khu vực bến thuyền đã thoát khỏi tiếng ồn ã và trở về tĩnh lặng.

Ô Hành Tuyết đứng thẳng dậy, rời khỏi vách tường và chạm mặt Tiêu Phục Huyên đang đi về phía mình.

Chàng ngừng chân và nhìn người kia.

Trong thoáng chốc, nét cười trong đôi mắt khoé môi chàng như đang đà tan vỡ. Song cuối cùng, chàng vẫn chỉ về phía bến thuyền và nói, “Tiện đường giúp đỡ xong rồi, ta phải đi đây.”

Chàng thật lòng có hơi luyến tiếc…

Lần nào cũng thế, khác nào uống rượu độc để nguôi ngoai cơn khát.

Tiêu Phục Huyên đang quay lưng về hướng vầng dương ảm đạm, nét mặt có phần mờ ảo. Ô Hành Tuyết chỉ thấy hàng mi y nheo nhẹ giây lát rồi lại thả lỏng ra, y hỏi, “Ngươi định đi đâu?”

Ô Hành Tuyết định tới Thương Lang Bắc Vực, nhưng việc hiện giờ Tiêu Phục Huyên xuất hiện ở đây cho thấy y cũng đang đi đến Thương Lang Bắc Vực. Vậy thì chàng phải đổi sang hướng khác.

Ô Hành Tuyết ngẫm nghĩ, không nói địa điểm cụ thể mà chỉ nêu chung chung, “Hướng nam.”

Chàng đang mang một dáng vẻ giả, xuất hiện với tư cách một người xa lạ, hiển nhiên cũng không làm gì khác được.

Chẳng qua chỉ là một người dưng xuất hiện một lần trong đời. Lần nào xuất hiện trước mặt Tiêu Phục Huyên, chàng đều như thế.

Thế nên chàng cũng không nói mấy câu đại loại như “hẹn gặp lại” hay gì đó, mà chỉ cong mắt nhoẻn cười, rồi lướt qua vai Tiêu Phục Huyên và tiến về bến đò.

Tương tự bao lần trước đây.

Đèn lồ ng giăng dài trên những cột cao dọc bến đò đang khẽ khàng đung đưa trong gió.

Khi thuyền ô bồng cập bến, nụ cười trên mặt Ô Hành Tuyết đã tắt ngúm, đôi mắt dài trĩu xuống.

Vừa lúc chàng nhấc dây đèn toan cúi người bước lên thuyền, một người bước đến từ đằng sau và nắm lấy tay chàng.

Ô Hành Tuyết ngỡ ngàng một lúc lâu, sau đó bất chợt quay đầu lại. Chàng nghe giọng Tiêu Phục Huyên vang lên trầm ấm.

Y nói, “Ô Hành Tuyết, khi không mang dịch dung, trông ngươi ra sao?”

Y nói: Ô Hành Tuyết, ta muốn nhìn gương mặt ngươi.

***

Ấy là một hôm của hơn hai trăm năm sau. Vào đêm tương tự năm Thanh Hà thứ nhất, bên bến thuyền ra biển Vô Đoan, giữa màn trời mịt mờ tuyết xám.

Linh Vương bị xoá sổ năm nào, giờ vẫn chưa một ai nhớ đến.

Nhưng trên đời vẫn luôn có một người như thế, người chẳng bao giờ nhận nhầm đôi mắt chàng.

❄︎

Lời tác giả:

Mọi người đợi lâu QAQ tui viết mà không ưng lắm nên phải viết đi viết lại mấy lần.

Cá:

Mọi người còn nhớ lúc Huyên Tuyết đến nhà họ Hoa ở Xuân Phiên Thành lần đầu và khi Tuyết hỏi “Ô Hành Tuyết trong ấn tượng của Huyên là người thế nào” thì Huyên đáp là “Là người mà ta không bao giờ nhận nhầm” đó. lãng mạn chết mất thôi~

Bình luận

Truyện đang đọc