ƯỚC HẸN PHÙ HOA

Khi Nhậm Tư Đồ xuống dưới lầu thì xe đã đợi cô ở đấy. Sau khi lên xe, “anh tài xế” vẫn không chịu nói chuyện với cô mà chỉ im lặng nhấn ga, lái xe rời khỏi đó.

Nhậm Tư Đồ cứ tưởng anh sẽ dẫn mình đến một nhà hàng ở gần đó, không ngờ xe càng chạy càng xa, mãi hơn nửa tiếng đồng hồ sau mới dừng lại.

Nhậm Tư Đồ đâu có lòng dạ nào mà ăn uống, cô tháo dây an toàn, xuống xe, đưa mắt nhìn thì mới phát hiện trước mắt mình không phải là nhà hàng. Rõ ràng đây là cổng trường học, còn là ngôi trường cũ của bọn họ.

Có điều bây giờ cổng trường trông hoành tráng hơn năm xưa nhiều. Trên cái bệ bằng đá cẩm thạch là tấm bảng được dát những chữ vàng rồng bay phượng múa. Thứ bắt mắt nhất chính là hàng cột cờ thẳng tắp, cờ xí tung bay phấp phới.

Nhậm Tư Đồ không dám chắc lắm. “Mới sáng sớm đã dẫn em đến thăm trường à?”

Thật ra bây giờ đã hơn tám giờ rồi, hoàn toàn không phải là sáng sớm. Nhưng hôm nay là Chủ nhật, trường học khá vắng vẻ và yên tĩnh. Nếu có thì chắc cũng chỉ có đám học sinh năm thứ ba đáng thương là phải đi học. Hơn nữa hiện nay đang là mùa lạnh nên ngôi trường càng có vẻ im ắng như vào lúc sáng sớm.

“Cổng sau có một cửa tiệm bán đồ ăn sáng, chúng ta băng qua trường để đi thì nhanh hơn.”

Cổng sau… Nhậm Tư Đồ vẫn nhớ nơi đó có một con đường nhỏ bán đồ ăn vặt tự phát của các tiểu thương. Không ít cửa hàng trang sức nhỏ và cửa hàng truyện tranh cũng chen lẫn trong ấy. Trường của bọn họ vốn là trường cấp hai chung cấp ba, những thứ mà bọn thanh thiếu niên thích thì con đường ở cổng sau đều có bán. Năm đó, trước khi tốt nghiệp, bọn họ nghe nói để đảm bảo số học sinh được lên lớp, trường học còn cố ý chỉnh đốn lại cái nơi ăn uống chơi bời đó, hoặc là sẽ bán cho các công ty để xây nhà ở. Bây giờ Thời Chung nói thế, xem ra những cửa hàng nhỏ ấy vẫn còn kiên cường tồn tại cho đến ngày nay.

Trong phòng trực của bảo vệ cạnh cổng trường, người bảo vệ vẫn đang ngủ gà ngủ gật. Hai người lặng lẽ đi vào trường. Đã lâu lắm rồi không trở lại thăm trường nhưng Nhậm Tư Đồ phát hiện những ký ức về ngôi trường này không hề bị xoá nhoà. Gần như chỉ vừa đưa mắt nhìn là cô có thể thấy được hai toà nhà được xây sau khi mình tốt nghiệp. Con đường dốc nối từ sân bóng rổ tới phòng học bây giờ đã trở thành những bậc thang nằm ngay ngắn thẳng hàng. Nhưng con đường nối với cổng sau thì vẫn như cũ, hơi chật hẹp khó đi. Vừa bước ra khỏi cổng sau, bên cạnh chính là khu nhà cũ kĩ dành cho cán bộ nhân viên trong trường, lối đi vẫn cứ chật hẹp như cũ. Nhậm Tư Đồ dễ dàng nhìn thấy bên kia có một ông lão vóc người nhỏ thó đang dắt một chú chó Samoyed trắng tinh, béo múp, từ trong khu nhà cũ kĩ bước ra.

Nhậm Tư Đồ thầm than thở một câu: “Đâu phải ông đang dắt chó, rõ ràng là bị chó dắt đi.”

Nhưng khi nhìn rõ diện mạo của ông lão kia, Nhậm Tư Đồ không khỏi ngây người. Cô không ngờ sẽ gặp lại giáo viên tiếng Anh của mình tại đây…

“Thầy Lục?”

Thời Chung vốn đi trước cô một bước, nghe thấy thế thì lập tức dừng bước, quay đầu lại nhìn theo phản xạ. Chỉ nhìn ông lão kia một cái thôi mà suýt nữa Thời Chung không kìm được, phải chống tay lên trán trong sự bất đắc dĩ.

Thầy Lục đứng nguyên tại chỗ nhìn Nhậm Tư Đồ một hồi, dường như sau đó mới nhận ra cô rồi dùng sức kéo lấy dây xích chó, đi về phía bọn họ. Nhậm Tư Đồ thấy thầy giáo đi lại khó khăn như thế thì lập tức bước tới trước để đón. Nhưng vừa đi được vài bước, quay lại thì phát hiện Thời Chung vẫn đang đứng đó không chịu nhúc nhích, Nhậm Tư Đồ không nhịn được cười.

Năm đó thầy Lục chính là khắc tinh của những học sinh học kém môn tiếng Anh. Cái anh chàng Thời Chung nãy giờ vẫn đang vênh váo kia giờ cũng biết sợ rồi sao?

Nhậm Tư Đồ cố nín cười, quay lại nắm lấy cánh tay của Thời Chung, cố ý kéo anh cùng đi về phía thầy Lục.

Khi thầy Lục dạy tới khoá của bọn họ thì tuổi tác cũng đã cao, mái tóc hoa râm của thầy trước kia bây giờ cũng đã bạc phơ. Thầy về hưu lâu rồi nhưng khí chất thì vẫn không thuyên giảm.

Dù sao Nhậm Tư Đồ cũng là học sinh phụ trách bộ môn tiếng Anh năm đó nên ít nhiều cũng tìm được chút vinh dự khi đứng trước mặt thầy. Nhưng Thời Chung thì khác, anh cứ lúng túng đứng bên cạnh cô, nghe thầy Lục khen ngợi cô học trò xuất sắc nhất của mình năm xưa.

Nghe cô nói bọn họ cố tình đi một chuyến tới trường để ăn sáng, ánh mắt của thầy Lục trở nên sâu xa. “Đừng nói bây giờ hai đứa các em là…”

Khi nói câu này, ánh mắt thầy Lục nhìn Nhậm Tư Đồ có chứa thêm phần tiếc nuối, khiến Thời Chung không thể không bật cười…

Học sinh xuất sắc nhất năm đó… Thằng nhóc xấu xa, dốt Anh văn có tiếng năm đó… Hoa lài… và… bãi cứt trâu…

Thầy Lục còn phải dắt chó đi dạo nên Nhậm Tư Đồ liền chào thầy, lấy từ trong túi xách ra một tấm danh thiếp, đưa cho thầy bằng hai tay. Thấy Thời Chung vẫn không chịu nhúc nhích, Nhậm Tư Đồ âm thầm dùng khuỷu tay chọc vào người anh.

Lúc ấy Thời Chung mới lấy danh thiếp trong ví da ra.

Thầy Lục vui vẻ nhìn tấm danh thiếp của Nhậm Tư Đồ, không ngừng khen ngợi: “Công việc rất tốt!”

Khi nhận lấy tấm danh thiếp của Thời Chung thì thầy bỏ qua chức vụ và tên công ty mà lập tức đọc phần phụ lục bằng tiếng Anh trên đó, tăm tia vì bệnh nghề nghiệp rồi nhíu mày. “Tên tiếng Anh của em… cũng thật là sát nghĩa.”

Nhậm Tư Đồ cúi đầu nhìn qua một chút.

Thấy cái tên tiếng Anh: Clock viết rõ ràng trên tấm danh thiếp, Nhậm Tư Đồ lập tức hiểu ra tại sao thầy Lục lại nhíu mày. Cô không khỏi liếc nhìn Thời Chung một cái.

Theo lời của thầy Lục, anh cũng đang nhìn lại tấm danh thiếp của mình. Bởi vì anh cúi đầu nên Nhậm Tư Đồ chỉ có thể nhìn thấy một bên mặt góc cạnh của anh chứ không nhìn thấy vẻ mặt của anh. Nhưng vẻ mặt thầy Lục thì cô thấy rất rõ… Đó là cảm giác bất lực: quả nhiên học sinh có thành tích tiếng Anh không tốt thì ngay cả cái tên tiếng Anh cũng không thể đặt cho hay được…

Đúng lúc này, Thời Chung bỗng ngẩng lên, ánh mắt anh chạm vào mắt Nhậm Tư Đồ. Khoảnh khắc ấy, cô cảm thấy trong mắt anh loé lên vẻ gì đó rất chói mắt nhưng chỉ một giây sau, anh lại dùng giọng nói hết sức bình thường để giải thích với thầy Lục: “Hình như là một người nào đó rất rảnh rỗi, chuyên đi lo chuyện của người khác đặt giúp em.”

Xem ra có lẽ anh không nhớ chính xác tên tiếng Anh của mình từ đâu mà ra, Nhậm Tư Đồ thầm thở phào nhẹ nhõm nhưng đồng thời cũng lấy làm lạ là sao mình lại nhớ hồi ức rất nhỏ của năm xưa nhỉ? Nhưng cho dù không rõ nguyên nhân thì cô vẫn nhớ rất rõ…

Khi ấy, bọn họ vừa phân ban sau khi lên cấp ba, thầy giáo quy định khi làm bài tập tiếng Anh thì phải dùng tên tiếng Anh của mình. Thời Chung cứ lần lữa không chịu nộp bài tập, Nhậm Tư Đồ làm lớp phó học tập nên đương nhiên phải đi giục anh. Kết quả anh báo cho cô biết lý do là mình chưa có tên tiếng Anh, cũng không nghĩ ra cái tên nào thích hợp nên quyết định không nộp bài tập về nhà. Nhậm Tư Đồ lật vở bài tập trống không của anh là biết ngay đây chỉ là cái cớ nhưng cô cũng không thèm vạch trần anh mà đưa vở bài tập của mình cho anh chép, sau đó thuận theo cái cớ của anh, nói tiếp: “Vậy thì cứ lấy tên Clock luôn đi”. Lúc ấy anh nghe cô nói thế, chỉ ngẩn ra một chút liền vui vẻ chấp nhận lời đề nghị của cô, vung bút lên, viết thẳng vào vở bài tập, có lẽ là cảm thấy cách dịch sát nghĩa như thế cũng không tồi.

Thầy Lục không nhớ Thời Chung có cái tên tiếng Anh như vậy là vì số lần Thời Chung nộp bài tập tiếng Anh quá ít, nên thầy nhìn thấy vở bài tập tiếng Anh của anh chẳng được bao nhiêu lần, việc không thể ngờ Thời Chung vẫn dùng cái tên ấy cho tới bây giờ là lẽ đương nhiên.

Lúc này, Nhậm Tư Đồ cảm thấy cực kì xấu hổ. Thứ nhất, thầy Lục mãi mãi cũng không thể ngờ được rằng trên thực tế, cái tên không ra gì ấy lại do học sinh xuất sắc nhất của mình đặt. Thứ hai, bây giờ Thời Chung là một doanh nhân có chút tiếng tăm, lỡ như khi kí hợp đồng với người nước ngoài, phía dưới viết cái tên tiếng Anh ấy, rất có thể sẽ bị người ta cười sau lưng…

Sau khi chào tạm biệt thầy Lục, hai người tiếp tục đi dọc theo con phố ấy. Những cửa hàng hai bên đường đã ngay ngắn trật tự hơn trước rất nhiều, có lẽ là từng được tu sửa. Nhậm Tư Đồ vẫn đang xấu hổ vì cái tên tiếng Anh kia, nhưng sau khi cảm giác xấu hổ qua đi thì lại không nhịn được cười.

Không ngờ Thời Chung đột nhiên quay đầu, bắt gặp nụ cười của cô. Anh khẽ nheo mắt lại, giọng nói hơi trầm và gằn, như thể đang doạ dẫm: “Em còn có mặt mũi để cười được à?”

Sao cô lại không có mặt mũi để cười chứ? Dù sao thì anh cũng không nhớ ai đã đặt cho mình cái tên không ra gì ấy kia mà.

Về chuyện này, anh thực sự hết cách với cô nên đành phải bước nhanh hơn. Nhậm Tư Đồ đi theo sau anh, mãi đến khi thấy anh dừng lại trước một cửa tiệm bán đồ ăn sáng, không tên không bảng hiệu ở ven đường.

Ký ức này đã có từ rất lâu rồi, nhưng khi Nhậm Tư Đồ đứng bên đường, ngửi những mùi vị hỗn tạp của thức ăn từ bên trong bay ra thì dường như có thể phân biệt được ngay mùi hương của từng loại thức ăn.

Sữa đậu nành, dầu cháo quẩy, đậu hũ non, bánh nướng, đương nhiên còn có cả hoành thánh và sủi cảo mà năm đó cô thích nhất. Thậm chí cái góc có quạt treo tường mà cô thường ngồi khi ấy đến nay vẫn còn treo cái quạt màu trắng năm nào. Có điều bàn ghế đã được thay mới, không còn là những băng ghế dài đơn giản như trước nữa.

Năm ấy, mẹ cô còn là hiệu trưởng trường mẫu giáo. Bởi vì trường học nhận những học sinh khuyết tật nên mẹ cô còn bận bịu hơn cả các nhân viên bình thường, hoàn toàn không có thời gian để chuẩn bị bữa sáng cho cô. Cửa hàng bán đồ ăn sáng này nằm trên con đường Nhậm Tư Đồ nhất định phải đi qua nếu muốn đến trường nên vấn đề lấp đầy cái bụng vào bữa sáng của cô đều được giải quyết ngay tại đây.

“Ông chủ, cho hai chén hoành thánh, hai phần sủi cảo.” Thời Chung bước vào trong quán trước, vừa nói với ông chủ vừa đi thẳng vào, ngồi xuống chỗ ngồi “của cô”.

Nhậm Tư Đồ vội vàng bước theo, ngồi xuống bên cạnh Thời Chung. Không phải cô cố ý pha trò mà bởi hoàn cảnh quá quen thuộc nên tự nhiên bộc lộ cảm xúc. “Anh có biết chỗ mà mình đang ngồi vốn là chỗ của riêng em không?”

Anh chỉ “à” một tiếng lấy lệ.

Thấy anh trả lời một cách lạnh nhạt như thế, Nhậm Tư Đồ cũng không định nói tiếp nữa. Nhưng khi quay đầu qua và nhìn thấy ông chủ đang đứng bên chiếc xoong bốc hơi nóng hổi, ngâm và vớt hoành thánh bằng tư thế lão luyện thì Nhậm Tư Đồ lại tiếp tục nói như dò được đúng đài: “Suốt ba năm trung học, hầu như em đều ăn sáng ở đây. Hai món mà anh vừa gọi chính là những món mà em thích ăn nhất.”

Toàn bộ những gì Nhậm Tư Đồ nói đều là sự thật nhưng không biết có phải Thời Chung cảm thấy những lời này là để lấy lòng anh, kéo gần khoảng cách với anh không mà anh cứ cười cười một cách hờ hững.

Nhậm Tư Đồ nhìn thấy nụ cười hờ hững trên môi anh thì lòng càng thêm chắc chắn anh đã hiểu lầm những lời của cô, nghĩ cô đang kéo gần khoảng cách với anh. Thời Chung nhanh chóng thu lại nụ cười, ánh mắt nhìn ra ngoài cửa, hất đầu về phía đống bàn ghế đặt bên ngoài cửa tiệm. “Nếu đây là chỗ ngồi quen thuộc của em thì nơi đó… chính là chỗ ngồi quen thuộc của anh.”

Nhậm Tư Đồ nhìn theo động tác ra hiệu của anh.

Phản ứng đầu tiên của cô là không dám tin cho lắm. Anh thường xuyên ngồi chỗ đó để ăn sáng? Vậy sao cô chưa bao giờ nhìn thấy anh?

Cô vừa quay đầu lại nhìn Thời Chung thì phát hiện dường như anh đang nghĩ về một hồi ức xa xôi, vừa thú vị vừa bất đắc dĩ nào đó nên ánh mắt gần như là sáng lấp lánh mê người.

Có lẽ đây chính là căn bệnh chung của những người trưởng thành. Những hồi ức thời niên thiếu, cho dù có đắng có khổ thì nhiều năm sau nhớ lại, nó đều ngọt ngào và tươi đẹp. Nhậm Tư Đồ bất giác nhớ tới mình năm đó, mỗi sáng sớm vì phải tranh thủ cho kịp giờ đi học mà cứ vội vội vàng vàng chạy vào trong tiệm, kêu một tô hoành thánh hay là món gì đó, ăn sì sụp thật nhanh. Nếu còn có thời gian thì sẽ mua thêm một phần sủi cảo, gói lại mang vào trong phòng học ăn sau. Về phần chỗ ngồi quen thuộc của Thời Chung… Mỗi lần cô đều đến hối hả và đi vội vàng, nên chỗ ấy rất dễ trở thành góc chết trong tầm mắt của cô.

Bên tai cô lại vang lên giọng nói của anh: “Trước năm hai, anh không hề có thói quen ăn sáng. Nhưng một hôm, có một người bạn học mang phần sủi cảo vào phòng học, lén ăn vào giờ truy bài buổi sáng. Anh nghĩ, sao cô ấy có thể ăn nó một cách ngon lành như thế? Sau đó anh mới phát hiện nơi cô ấy mua sủi cảo và vào nếm thử một lần, hương vị quả thật không tồi nên sau đó thường ghé vào.”

Giờ truy bài buổi sáng… Lén ăn trong lớp…

Nhậm Tư Đồ nhất thời cứng cả người. Nhưng đúng lúc này, một mùi hương ập đến, cắt ngang dòng suy tư của Nhậm Tư Đồ. Ông chủ bưng đĩa sủi cảo về phía bọn họ, mùi hương nóng hổi ấy cũng càng lúc càng gần. “Đây. Khuyến mãi thêm cho hai người một phần sủi cảo nữa.”

Ông chủ tiệm thật là hào phóng…

Nhậm Tư Đồ không khỏi nghĩ thầm, cô ăn sáng ở đây suốt ba năm mà ông chủ không nhớ được cô, nhưng sao ông ấy không chỉ nhớ Thời Chung mà còn có vẻ như rất thân thiết với anh vậy?

Quả nhiên, câu tiếp theo mà ông chủ nói chính là: “A Chung, sao gần đây cậu không đến nữa?”

Thời Chung mỉm cười. “Gần đây hơi bận.”

So với nụ cười nhạt nhẽo mà có lệ dành cho Nhậm Tư Đồ, nụ cười anh dành cho ông chủ tự nhiên và thoải mái hơn nhiều.

“Bận yêu đương à?” Ông chủ nhìn Nhậm Tư Đồ với vẻ đầy ám chỉ.

Nhậm Tư Đồ đang định cười và gật đầu với ông chủ thì Thời Chung đã đính chính với giọng nói hết sức bình thản: “Bạn học cũ mà thôi.”

Nụ cười của Nhậm Tư Đồ lập tức cứng đờ trên môi.

Ông chủ hoàn toàn không tin cái cớ cũ rích này của Thời Chung nên cứ nhìn anh một chặp với ánh mắt giễu cợt. “Được rồi, tôi đi bưng hoành thánh lên cho cậu và bạn học cũ.”

Nhậm Tư Đồ cảm thấy rất ngưỡng mộ thái độ của Thời Chung đối với ông chủ. Khi chủ quán đi rồi, bọn họ hoàn toàn không nói chuyện với nhau. Thật ra trong lòng Nhậm Tư Đồ rất muốn hỏi anh rằng người bạn học thường ăn vụng trong lúc truy bài đầu giờ có phải là cô không, nhưng dường như anh không hề có ý định nói chuyện. Khi hai tô hoành thánh được mang lên, anh càng có lý do chính đáng hơn: Khi ăn không được nói chuyện.

Anh lấy hũ tương ớt đặt ở góc bàn tới trước mặt cô, múc cho cô một muỗng rưỡi tương ớt, sau đó thì cắm đầu ăn tô hoành thánh của mình.

Nhậm Tư Đồ đành phải sa sầm nét mặt, trộn tương ớt vào tô hoành thánh, im lặng ngồi ăn. Tất cả đều là hương vị quen thuộc, Nhậm Tư Đồ tạm thời vứt những suy nghĩ và âu lo đi, cúi đầu ăn hoành thánh.

Thời Chung ăn nhanh hơn Nhậm Tư Đồ, ăn xong anh cũng không ở đó đợi. Thấy trong lúc nhất thời cô không thể ăn xong ngay được nên anh liền ra ngoài cửa tiệm chơi với cháu nội của ông chủ quán.

Cháu nội của ông chủ quán vừa biết đi, dáng vẻ giống hệt một chú chim cánh cụt, cứ lẽo đẽo theo sau vóc dáng cao lớn của Thời Chung mà đòi được bế. Hai cánh tay bụ bẫm cứ dang rộng ra, tư thế ấy có vẻ không được bế thì không chịu thôi. Bà chủ quán đứng ở bên cạnh mà cũng không ngăn được cậu nhóc. Nhậm Tư Đồ vô tình ngẩng lên, liếc mắt qua đó, cảm thấy hình ảnh này rất thú vị và hài hoà nên cũng không khỏi bật cười theo.

Cô dùng tốc độ nhanh nhất để giải quyết tô hoành thánh của mình, đứng dậy định đi về phía ông chủ quán để tính tiền. Vừa đi cô vừa không kìm được nhìn ra ngoài cửa tiệm, chỉ thấy Thời Chung đang bế đứa cháu nội của ông chủ trên tay. Dù sao thì Thời Chung cũng cao hơn ông chủ cả cái đầu, cậu bé được bế cao như thế, lúc đầu có vẻ không thích ứng được nên sợ hãi kêu ré lên vài tiếng nhưng rồi cũng nhanh chóng thích ứng, nó chỉ cười hì hì và bắt lấy cánh tay của Thời Chung, nghịch cái đồng hồ trên cổ tay anh.

Thời Chung vẫn không có biểu cảm gì đặc biệt nhưng ánh mắt của anh rất ấm áp và dịu dàng… Điều này khiến cho Nhậm Tư Đồ không khỏi suy đoán nếu sau này anh có con thì sẽ thế nào nhỉ?

Có lẽ anh chính là một người cha bề ngoài trông rất nghiêm khắc nhưng thật ra lại yêu con vô bờ bến.

Nhưng Nhậm Tư Đồ nhanh chóng buộc mình phải thu ánh mắt lại: Nghĩ lung tung gì vậy chứ? Cô lắc đầu quầy quậy.

Ông chủ quán thấy Nhậm Tư Đồ cầm ví tiền đến gần thì không ngừng xua tay. “Không cần, không cần đâu!” Nói xong còn đẩy ví tiền của Nhậm Tư Đồ vào lòng cô.

“Bác cứ nhận đi ạ. Nếu bác không lấy tiền thì lần sau cháu không dám đến đây ăn gì của bác nữa đâu.”

Ông chủ nhìn Nhậm Tư Đồ và cười với vẻ bất đắc dĩ, giống như đang coi cô là một đứa cháu cố chấp. “Mỗi lần A Chung đến đây ăn sáng, tôi đều không lấy tiền của cậu ấy.”

Bình luận

Truyện đang đọc