Cách làm đơn giản hơn nữa giá cả cũng phải chăng, thúc đẩy thuốc Mohe trở thành sản phẩm dân gian dễ bán của Tân Cương.
Thời điểm đó, thuốc lá Mohe Tân Cương cũng có thương hiệu riêng của mình như ‘Tháp Thành’ ‘Chấn Hưng’, thuốc lá sản xuất đóng trong hộp thiếc, trên mặt bìa thường in hình những người chăn nuôi đang thả gia súc gặm cỏ hay các nhân vật trong truyện dân gian Tân Cương như Afanti, hay các khu chợ Baza nổi tiếng.
Người dân địa phương đặc biệt yêu thích thuốc lá Mohe. Trong các gia đình Tajik nếu có chuyện vui cần phải mở tiệc chiêu đãi khách, chủ nhà sẽ kính mời khách một điếu Mohe, sau đó sẽ nhiệt tình giải thích. Nếu khách chọn nhận thuốc, thì tức là nhận lời mời.
Tuy nhiên việc sản xuất thuốc lá Mohe thiếu sự giám sát, loại thuốc lá làm thủ công này không được lọc nên không thể làm giảm lượng hắc ín, khiến nhiều chỉ số vượt quá ngưỡng tiêu chuẩn nghiêm trọng, người hút trực tiếp sẽ gây nguy hại cho sức khỏe và thân thể hơn nhiều so với các loại thuốc lá thông thường.
Những năm gần đây, vì có một vài thành phần phạm tội đã trộn lẫn thuốc phiện vào trong thuốc lá Mohe, tiến hành hút và bán, tạo nên những tác hại nhất định, khó mà phòng bị được.
Sau nhiều nguyên nhân chồng chéo lên nhau, thuốc lá Mohe vì thế mà không được phép lưu thông trong thị trường tiêu thụ.
Dù vậy người địa phương vẫn giữ thói quen hút thuốc Mohe truyền thống, họ sẽ tự làm ra thuốc Mohe, nhưng những du khách ngoài vùng Tân Cương, có rất nhiều người còn chưa từng nghe nói qua bao giờ.
Cũng khó trách Yến Thanh Đường lần đầu tiên nhìn thấy thuốc Mohe lại ngạc nhiên đến thế.
Cô nhìn người địa phương đang hút thuốc Mohe, tinh thần sáng láng, dường như đang hưởng thụ hết mình, nhất thời lòng tò mò càng thêm nặng.
“Túc Chinh, anh từng thử qua thuốc Mohe chưa?” Yến Thanh Đường hỏi.
“Có người từng đưa cho tôi, thử qua mấy ngụm.” Túc Chinh thành thật đáp, “Hương vị đó…thật ra người bình thường sẽ không quen lắm.”
Túc Chinh không thích hút thuốc. Nhưng người dân tộc thiểu số mời thuốc với hàm nghĩa thân mật, khiến cho người nhận không thể nào từ chối được.
Lượng hắc ín trong thuốc lá Mohe rất cao, giấy dùng để cuốn thuốc lá đều là giấy báo tạp chí cũ, lúc đốt lên mùi vị sẽ rất dễ gây sặc. Hương vị đó, thật sự nếu là lần đầu tiên hút thì không dễ gì mà chấp nhận được. Lần đầu tiếp xúc, xoang mũi và đầu như bị sét đánh mạnh vào.
“Hơn nữa….” Túc Chinh chậm rãi nói, “Dù là thuốc lá gì, hút thuốc đều có hại cho sức khỏe, tương đương với việc tự sát từ từ.”
“Thế này nghe nghiêm trọng quá.” Lục Thừa Phong nghe xong thì cười nói, “Cứ như lời thoại quảng cáo công ích vậy.”
“Em lại cảm thấy Túc Chinh nói rất đúng mà.” Yến Thanh Đường đột nhiên phụ họa, “Hút thuốc vốn đã không tốt cho cơ thể, hút thuốc thụ động cũng như thế.”
Yến Thanh Đường không hút thuốc, nhưng nhiều năm qua cũng đã hít không ít khói thuốc thụ động.
Những người này phần lớn là đám đàn ông tự cho mình là trên cơ người ta, sẽ cố ý hút thuốc nơi công cộng, hoặc là để thể hiện cá tính, hay là thể hiện quyền lực. Dần dà về sau, Yến Thanh Đường không những chỉ ghét mỗi thuốc lá, mà còn ghét cả những tên đàn ông hay tự ái thích quấn mình trong khói thuốc đó.
Lúc Yến Thanh Đường nói những lời này xong, Lục Thừa Phong rất tự giác thu hồi lại hết những lời mình vừa nói, còn tự giác sửa miệng: “Đúng, quan trọng nhất là thân thể, hút thuốc đúng là không có thú vị gì sất.”
Ba người dừng bước dưới một gốc cây mơ hạnh rất lớn, cây mơ hạnh mọc lên không được thẳng tắp chỉnh tề, mà dáng vẻ của nó như thể giương nanh múa vuốt hơn.
Dưới gốc cây không có bàn hay ghế, chỉ có lác đác mấy tảng đá được mài phẳng, đại khái là dân bản địa thường xuyên ngồi nên góc cạnh sáng bóng loáng.
Yến Thanh Đường đi đường thấm mệt, rất tự nhiên ngồi xuống tảng đá nghỉ ngơi. Cô nhắm mắt lại, chung quanh không có âm thanh của bất cứ ai, chỉ còn lại tiếng gió xuân lướt qua những tán cây, còn có tiếng chim hót lảnh lót. Lát sau nữa, cô còn mơ hồ nghe được âm thanh nước chảy.
Gần đây có dòng suối.
Yến Thanh Đường lập tức mở bừng mắt, đứng dậy một mình đi kiếm dòng suối. Túc Chinh và Lục Thừa Phong đều theo sát phía sau.
Nơi này nằm ở bờ Nam sông Tashkurgan, con suối này chỉ rộng chừng ba bốn mét, mực nước rất nông, trong suốt thấy đáy, đoán chừng nó thuộc một nhánh nhỏ của sông Tashkurgan.
Yến Thanh Đường đến gần, đột nhiên nổi lòng ham vui, cho tay với vào trong nước, lúc nâng bàn tay lên được một vũng nước suối lạnh lẽo trong văn vắt, liền vốc hết nước về phía Túc Chinh và Lục Thừa Phong.
Lục Thừa Phong theo bản năng né ra rồi cười, ồn ào nói phải quay lại nơi mình dừng chân để lấy đồ gì đó, chỉ có Túc Chinh vẫn cứ thẳng tắp đi về phía của cô.
Cao nguyên Pamir đang vào xuân, trời sẽ hơi se lạnh. Nước trong lòng bàn tay của Yến Thanh Đường vốc về phía bọn họ không bay ra ngoài nhiều lắm, trái lại cổ tay áo dài tay của cô lại bị nước suối làm cho ướt sũng.
Vậy là cô dừng lại, duỗi đôi tay bị đông lạnh cóng, nửa oán giận nói: “Mùa xuân không thích hợp để chơi nước gì cả…”
Túc Chinh bấy giờ đã đi đến bên cạnh cô, không nói một lời, chỉ nhìn cô, đáy mắt không thấy rõ được cảm xúc.
Cô nghi hoặc rồi lui về sau mấy bước, đưa ra cảnh cáo cho anh: “Anh làm gì đó? Không được trả thù tôi.”
Túc Chinh đi đến từng bước, vươn hai tay ra nhẹ nhàng cầm lấy cổ tay cô, đoạn anh cúi đầu xuống, áp tay cô để cho lòng bàn tay lạnh lẽo ấy của cô dán lên hai bên gáy mình.
“Còn lạnh không?” Anh hỏi.
Đây là một điểm nóng nhất trên cơ thể anh, nó như một ngọn lửa. Mà cô thì như một bé mèo đang vây bên lò sưởi đặng sưởi ấm, thích thú nheo đôi mắt hạnh lại.
Mãi mê hơi ấm, dường như làm tăng thêm sự căng thẳng, tim đập thình thịch.
Yến Thanh Đường biết, thời khắc này tất cả mọi sự căng thẳng của cô đều là vì sự chủ động của Túc Chinh cùng với khoảng cách thân mật khắng khít nơi da thịt bọn họ đang chạm vào nhau.
Cô biếng nhác đến độ không muốn nói chuyện, không muốn trả lời lại Túc Chinh. Nhưng nếu có thể, cô vẫn nguyện duy trì tư thế này, lâu thật là lâu.
Nhưng không được lâu lắm, Lục Thừa Phong đã trở lại, còn cầm theo mấy cái áo khoác mà vừa nãy bọn họ để lại ở tảng đá dưới gốc cây vừa nghỉ ngơi kia, từ xa đã la lên: “Hai người cần không?”
Túc Chinh không đáp, vẫn quẩn quanh bên cạnh Yến Thanh Đường, nhưng Yến Thanh Đường thì lại đẩy anh ra, chậm chạp đáp lại câu hỏi vừa nãy của anh, khẽ sẵng giọng: “Ai cần anh quản tôi?”
Nói rồi, cô đi về phía Lục Thừa Phong, nhận lấy áo khoác từ Lục Thừa Phong.
Những thứ này có vẻ như Lục Thừa Phong đã mua ở Kashgar, hoa văn mang đậm nét của vùng dân tộc thiểu số đó.
Lục Thừa Phong vốn là muốn để cho Yến Thanh Đường mặc vào sưởi ấm, song Yến Thanh Đường lại sực nảy ra một ý tưởng khác, đề nghị trải nó xuống mặt đất, sau đó nằm lên trên.
Vào mùa xuân, hai bên bờ suối chỉ toàn là đá vụn, tuy rằng gió đã thổi sạch sẽ và cũng rất khô ráo, nhưng nếu nằm trực tiếp lên thì sau lưng vẫn sẽ cảm nhận được lành lạnh.
Yến Thanh Đường nhất thời hứng khởi nằm xuống, Túc Chinh và Lục Thừa Phong thấy thế cũng không chút do dự học theo, nằm xuống như cô.
Vì để nhẹ nhàng cho đi đường, nên bọn họ chỉ mang theo bánh mì naan và nước khoáng bên người.
Chung quanh là một rừng mơ hạnh bao quanh, Yến Thanh Đường cắn một miếng bánh naan, ngửa đầu lên nhìn những nhánh cây vắt ngang qua bầu trời xanh, không khỏi nhớ đến <<Đào hoa nguyên ký>>. “Cỏ thơm tươi đẹp, hoa chớm lả tả”, đại khái như thế.
“Nơi này đã nằm sâu trong núi Côn Lôn rồi nhỉ?” Lục Thừa Phong đang nằm bỗng nhiên nói, “Tuy rằng không leo l3n đỉnh núi, nhưng chỉ nằm thế này nhìn lên, cũng cảm thấy bầu trời gần mình quá đỗi.”
Sau đó dường như anh ta chỉ đang thì thào tự nói, “Có điều muốn đến gần nhất, vẫn là Tây Tạng.”
Nơi gần bầu trời nhất, câu này dường như nói cũng không sai lắm.
Cao nguyên Thanh Tạng là nơi có độ cao so với mực nước biển cao nhất thế giới, thuộc vùng Ngari, độ cao trung bình sẽ chừng hơn 4500 mét.
Rất nhiều người nói, ở Tây Tạng, ban ngày trời xanh mây trắng ban đêm bầu trời đầy sao, nó gần gũi và thuần khiết như thể chạm tay là với tới.
Mọi người bị sự thuần khiết như thế của thiên nhiên thu hút, cũng bị cảm động bởi đức tin sùng đạo của dân Tây Tạng.
Có điều nếu gác tín ngưỡng sang một bên và có lòng đến Tây Tạng, thì sẽ có niềm hy vọng dài lâu với mảnh đất ấy.
Nơi cách bầu trời gần nhất, cũng là nơi gánh nhiều hy vọng nhất.
Mọi người đến đây du lịch cốt là muốn thay đổi tâm trạng. Phần lớn những người đi Tây Tạng đều muốn để gột rửa sạch sẽ tâm hồn, muốn tìm hướng đi cho cuộc đời.
“Lục Thừa Phong này, đến Tây Tạng rồi anh còn muốn làm gì nữa?” Yến Thanh Đường hỏi theo, nhưng không chờ Lục Thừa Phong trả lời, cô lại nhanh chóng bổ sung, “Trừ việc leo l3n đỉnh Everest.”
“Còn muốn đi xem bò Tây Tạng mà người bản xứ nuôi nữa, anh cảm thấy chúng nó sẽ không giống với những con bò Tây Tạng mà chúng ta được nhìn thấy ở hồ Bạch Sa.” Lục Thừa Phong nhanh chóng đáp lời.
“Em hỏi thật đó.” Yến Thanh Đường nở nụ cười.
“Anh cũng trả lời thật lòng mà.” Lục Thừa Phong cũng cười theo, “Thật đó, anh thật sự muốn được nhìn thấy bò Tây Tạng.”
Bọn họ đều đang nằm, không nhìn thấy được biểu cảm của nhau, Lục Thừa Phong cũng không nhìn thấy được nét kinh ngạc của Yến Thanh Đường, tự giải thích: “Chẳng phải bò Tây Tạng là loài động vật có vú duy nhất trừ con người sống trên cao nguyên Thanh Tạng ư? Anh là trâu là ngựa, chúng nó là bò Tây Tạng, ai cũng có nỗi khổ riêng. Muốn xem thử chúng nó vì cớ gì mà có được sức sống bền bỉ đến thế.”
Lời giải thích này lại khiến cho Yến Thanh Đường nhớ đến bức ảnh đại diện đầu ngựa của Lục Thừa Phong, cô còn nhận nhầm với Túc Chinh đó là con lừa chịu khổ chịu nhọc nữa.
“Bò Tây Tạng tồn tại trong thời kỳ kỷ băng hà Pleistocene, đó còn là thời kỳ của voi ma mút, vậy nên sức sống phải bền bỉ ngoan cường.” Yến Thanh Đường nói.
“Nó còn được xem là thần hộ mệnh của dân tộc Tây Tạng.” Yến Thanh Đường lại nói tiếp.
Dân tộc Tây Tạng luôn mang một lòng sùng bái và tôn kính đối với bò Tây Tạng, nó bắt nguồn từ tín ngưỡng nguyên thủy của bọn họ.
Suốt mấy ngàn năm trong quá trình thuần hóa, bò Tây Tạng cũng di chuyển cùng với con người đi từ phía Đông Nam cao nguyên Thanh Tạng, sau đó là đi hết cả vùng cao nguyên Thanh Tạng.
Những con bò Tây Tạng vì để thích nghi được với hoàn cảnh của cao nguyên, mà chúng sở hữu dung tích phổi cùng với khả năng cung cấp máu cho tim rất mạnh mẽ, chịu được nhiệt độ thấp tới âm 40 độ C, song lại vì tuyến mồ hôi không phát triển nên nó không thể chịu được nhiệt độ cao trên 15 độ.
Vậy nên cả đời này nó không thể rời khỏi cao nguyên, đó là định mệnh của bò Tây Tạng.
“Nhưng anh lại thấy anh cũng rất cừ đó chứ.” Lục Thừa Phong trầm tư nói, “Anh vẫn đang sống sót trong thế kỷ hai mốt thời nay, là một nhân viên thất nghiệp này.”
Lục Thừa Phong đang tự giễu, nhưng không còn uể oải như hồi đầu mới gặp nữa.
Yến Thanh Đường lại thấy anh ta trời sinh đã lạc quan, không phải là người có thể tiêu cực và nản lòng trong thời gian dài.
“Em thì thấy anh không cần thiết phải leo l3n đỉnh Everest để suy ngẫm về cuộc đời.” Yến Thanh Đường lẳng lặng bình luận, “Anh giống như bò Tây Tạng vậy, ngày mai anh có thể bay về và bỏ hết đi tìm một công việc khác làm ngay và luôn đấy.”
“Tha cho anh đi.” Lục Thừa Phong cười khổ, “Xem như là anh đang tìm một cơ hội để trốn việc. Anh mệt chết rồi.”
“Đúng, anh chính là kiểu người đi học thì ghét đến trường, đi làm thì ghét công ty.” Lục Thừa Phong tìm được định nghĩa sống mới.
Thật tuyệt khi được ở bên trong lòng núi, có thể thoải mái nói ra được những lời chẳng tiến về phía trước một cách dễ dàng như vậy.
Ngay cả Túc Chinh vẫn luôn trầm mặc cũng nói: “Có đôi khi, không cần phải ép buộc bản thân đi nhanh như thế, cuộc sống không cần thiết phải quá căng thẳng, thả lỏng bản thân để cho chính mình dễ thở hơn.”
Lục Thừa Phong còn muốn phụ họa, nhưng Yến Thanh Đường lại giành trước chỉ trích Túc Chinh: “Ôi chao, còn bảo người khác thả lỏng cơ, nhưng ai đó lại đi ép buộc bản thân căng thẳng nhất đấy.”
Túc Chinh ấy thế mà nhất thời á khẩu không đáp lại được.