PHÁN QUAN

“Năm 1918….” Văn Thời khẽ thì thầm.

“Năm 18?” Hạ Tiều không dám quấy rầy, nhưng khi thò đầu trông thấy mấy con số vẫn không khỏi ngây người, “Sao lại là năm 18 nhỉ? Trong nhật ký rõ ràng viết là năm 1913—–“

Lời còn chưa dứt, cậu đã ngẩng đầu lên nhìn Tạ Vấn. Thế là nhớ ra Tạ Vấn lúc trước từng nói ‘không phải tất cả câu nói trong lồng đều là thật’, bọn chúng thường bị ảnh hưởng bởi ý thức của chủ lồng, ít nhiều cũng sẽ khác với sự thật.

“Nhật ký đều là cùng một người viết.” Văn Thời không ngẩng đầu nói.

Mối nghi ngờ của Hạ Tiều chưa biến mất, nhưng cậu vẫn ngoan ngoãn gật nhẹ đầu.

Trái lại Tạ Vấn nhìn Văn Thời tràn đầy khen ngợi, bổ sung thêm: “Thậm chí còn có phần cố ý viết ra để cho người khác đọc, ví dụ như bản trong túi của anh cậu.”

Anh ta chỉ vào quyển nhật ký trong túi quần jean của Văn Thời nói: “Nếu như ngay cả ‘mình’ trong đó cũng là giả, vậy thì cậu còn tin tưởng nó làm gì, dỗ dành cho người viết vui vẻ à?”

Hạ Tiều vội vàng lắc đầu, tỏ vẻ bản thân đã nói điều cực kỳ ngu ngốc.

Vừa mới thuyết phục được tiểu Tiều, giọng điệu của Tạ Vấn liền thay đổi, anh ta lại nheo mắt nhìn Văn Thời nói: “Nhưng thư cũng do cùng một người viết, ngang ngửa chẳng kém nhau đâu.”

Văn Thời: “…..”

Người này tới để phá rối đây mà.

Văn Thời ngẩng đầu, trưng vẻ mặt chết lặng nhìn anh ta, sau đó gấp lá thư lại, lật ngược bức thư rồi dí sát vào dưới mắt Tạ Vấn.

“Nhìn dấu tem thư đi.” Văn Thời nói.

Những chi tiết này thật ra không cần phải giải thích cho người ta. Dù sao người giải lồng cũng là hắn, thể chất của Tạ Vấn vốn không thể tham gia được, giống như Hạ Tiều và những người khác, biết được sự thật hay không cũng đều không ảnh hưởng được tới thứ gì.

Nhưng hắn vẫn không nhịn được giải thích cho Tạ Vấn.

Khó mà nói rõ được xuất phát từ tâm lý gì, có lẽ không muốn ra vẻ bản thân độc đoán quá mức mà thôi.

Bức thư nọ gần như chạm vào chóp mũi, Tạ Vấn hơi ngửa đầu ra sau cười nói: “Thấy rồi.”

Bức thư đúng là được viết bởi một người, miễn cưỡng mà nói thì không khác quyển nhật ký là bao, nhưng tem thư thì lại không phải.

Trước đó Văn Thời từng nói, vì mọi thứ trong lồng không hoàn toàn là thật nên mới muốn gom tất cả thông tin lại đối chiếu một lần, sau đó phân biệt cái nào thật cái nào giả sẽ dễ dàng hơn.

Bởi dù đây là tiềm thức của chủ lồng thì cũng không thể chú ý được tất cả các mặt, chỉ cần nói dối sẽ luôn có sơ hở.

Trên tem thư có đánh dấu ngày gửi là mùng 6 tháng 5 năm 1918, và lá thư bị hoàn trả đóng dấu ngày 17 tháng 5 năm 1918. Nó trùng khớp với ngày Lý tiên sinh ghi ở phần ký tên trong thư.

Tạ Vấn cầm bức thư trong tay Văn Thời, vừa lật xem vừa nói: “Thời gian trong nhật ký là ngày bao nhiêu?”

Văn Thời rút quyển nhật ký ra khỏi túi, lật tới trang bị gấp mép. Lúc nhìn thấy ngày tháng, hắn nhíu mày nói: “Ngày 19 tháng 5.”

Tạ Vấn giơ bức thư lên: “Vừa khéo, cùng ngày giỗ của vú em.”

Trong bức thư này, Lý tiên sinh không nói rõ vú em qua đời vào năm nào, nhưng khi Văn Thời xem nhật ký, bỗng nhiên nhận ra ‘ngày 19 tháng 5 năm 1913 có lẽ chẳng phải thời gian tiện tay viết linh tinh thôi đâu.”

Hắn lại tìm kiếm trong hộp thư, lần này mục tiêu hết sức rõ ràng——nếu như vú em thật sự treo cổ tự sát vào ngày đó năm đó, với thói quen trao đổi thông tin của Lý tiên sinh và vợ mình, sự việc kia có lẽ sẽ được nhắc tới trong thư.

Lý tiên sinh là một người rất ngăn nắp, tất cả thư nhận được đều sẽ sắp xếp theo thời gian. Văn Thời nhanh chóng tìm thấy những lá thư từ năm năm trước, chọn ra ba bức sau tháng 5.

Hắn còn chưa nói rõ mục đích, Tạ Vấn đã rút một lá thư nói: “Mỗi người một bức xem cho nhanh.”

Hạ Tiều nghe vậy cũng nhận một lá thư, nhưng vẻ mặt ngơ ngơ ngác ngác.

“Có biết phải xem cái gì không?” Tạ Vấn nói.

Hạ Tiều đỏ bừng mặt, rõ ràng là cậu đang chẳng hiểu mô tê gì.

Ánh mắt Tạ Vấn quét qua khuôn mặt Văn Thời, khoảnh khắc đó không biết anh đang suy nghĩ điều gì. Có lẽ đang cảm khái việc hai anh em cùng một nhà nhưng lại trái ngược nhau.

“Xem xem trong thư có nhắc tới việc vú em qua đời hay không.” Tạ Vấn nói.

Hạ Tiều vội vàng gật đầu, bóc dấu tem.

Văn Thời vừa mở miệng liền ngậm vào, đỡ mất công giải thích. Hắn cũng cụp mắt mở phong bì thư, lát sau không nhịn được hỏi một câu: “Sao anh biết?”

Tạ Vấn ngẩng đầu nhìn hắn, sau đó lại cúi đầu cụp mắt mở phong bì thư nói: “Chỉ mình cậu được phép thông minh thôi à?”

Đáng nhẽ Văn Thời phải đốp lại một câu hoặc dứt khoát lờ nó đi như hắn đã từng làm trước kia. Nhưng hắn lại nhìn chằm chằm Tạ Vấn một lúc, bỗng nhiên híp mắt nhả một câu: “Đúng vậy.”

Tiếng ‘răng rắc’ vang lên bên cạnh do Hạ Tiều ngẩng đầu quá mạnh. Tiểu Tiều sợ hãi nhìn anh trai mình, phút chốc khó mà phân biệt nổi anh mình uống lộn thuốc hay là bị đoạt xác.

Tạ Vấn cũng nhìn sang.

Văn Thời không mở miệng nữa, chỉ cúi đầu đọc nội dung bức thư trong tay.

Đây là bức thư hồi âm của Từ Nhã Dung gửi Lý tiên sinh, trên dấu tem ghi ngày 2 tháng 7 năm 1913. Phần kí tên trong thư ghi ngày 14 tháng 6 năm 1913.

Hắn liếc mắt tới dòng thứ hai liền thấy nội dung liên quan tới vú em.

Trước đó thường nghe anh nhắc tới quản gia và tiểu thiếu gia nhà họ Thẩm, không nhắc nhiều đến chị Thái kia cho lắm, chỉ nói chị ấy dẫn theo con trai là A Tuấn đến sống ở nhà họ Thẩm. Không ngờ lần này nhắc tới lại là chuyện như thế, thật sự khiến người ta đau buồn, một người đang sống sờ sờ sao lại đột nhiên thắt cổ tự tử?

Đứa con trai tên A Tuấn của chị ấy chắc là tầm tuổi với tiểu thiếu gia nhà họ Thẩm nhỉ, chín tuổi hay là mười tuổi? Tuổi còn nhỏ đã mất đi chỗ dựa, sau này phải làm thế nào đây, mọi người quan tâm nó nhiều hơn chút nhé.

Mặc dù không nói nhiều nhưng có thể chắc chắn một sự việc——–bà Thái đúng là mất vào ngày 19 tháng 5 năm 1913.

Ánh mắt Văn Thời rơi vào câu hỏi trên bức thư, bỗng nhiên ngẩng đầu hỏi: “Ai cầm bức thư tháng 8 thế?”

Tạ Vấn: “Tôi cầm.”

Văn Thời: “Có nhắc tới nguyên nhân vú em treo cổ không?”

Nếu như Từ Nhã Dung đã hỏi một câu trong thư rằng ‘Một người đang sống sờ sờ sao lại đột nhiên thắt cổ tự tử?’ Theo lẽ thường thì Lý tiên sinh chắc chắn sẽ nhắc tới nguyên nhân trong thư của gã dù ít dù nhiều, bởi vậy nên Từ Nhã Dung cũng có thể nhắc tới trong thư hồi âm của mình.

Quả nhiên Tạ Vấn chỉ vào một dòng chữ trong thư nói: “Cháy rèm màn.”

Cách nói này có hơi lạc hậu, Văn Thời nhìn anh ta một cái, nhận lấy bức thư. Chỉ thấy bên trong viết:

Mặc dù rèm màn cháy là một chuyện vô cùng nguy hiểm nhưng dù sao cũng cứu được người rồi, tiểu thư nhà họ Thẩm cũng không bị thương gì, chỉ cần chân thành xin lỗi rồi sau này chú ý hơn là được, mà cùng lắm thì xin nghỉ việc về nhà thôi, sao lại nghĩ quẩn như thế chứ?

Ôi chao,em cũng không biết gì nhiều, không tiện bình luận. Chỉ cảm thấy chị Thái này cũng là một người đáng thương.

Tiểu thư nhà họ Thẩm đỡ hơn chút nào chưa? Trong thư anh có nói cô bé sốt cao không giảm, lòng em cũng hơi lo lắng không yên, cô bé lớn tầm bé con nhà mình thôi, mặc dù em chưa gặp con bé bao giờ nhưng mỗi lần anh nhắc đến nó là trong đầu em lại nghĩ tới khuôn mặt con mình. Trẻ con mà bị sốt thì sợ lắm, nhất định phải chăm sóc cẩn thận, nếu không sẽ ảnh hưởng tới phát triển sau này đó.

Tuy trong thư chỉ nhắc vài ba câu nhưng chắp vá cũng có thể phát hiện ra một sự thật—–

Sợ rằng bà Thái ngày đó làm việc không cẩn thận nên khiến căn phòng bắt lửa, Thẩm Mạn Di suýt chút nữa xảy ra chuyện. Cũng may lửa được dập kịp thời, không gây ra đại họa, làm mọi người sợ hãi một trận.

Nhưng lòng bà Thái cứ quẩn quanh mãi chuyện đó, giống như Lý tiên sinh viết trong lá thư này, bà ta cũng từng có cuộc sống của tiểu thư đài các, sau này gia đình lụn bại mới tới nhà họ Thẩm, thường xuyên sầu não chán nản. Có lẽ sợ bị người ta oán hận, cũng có thể cảm thấy cuộc sống không còn nghĩa lý gì, bất chợt nghĩ chẳng thông nên treo cổ tự sát.

Đến bức thư vào tháng 10 trong tay Hạ Tiều, nội dung liên quan tới chuyện này ít hẳn đi, chỉ nhắc một câu “Anh còn nhớ lão tam nhà họ Chu ở huyện chúng mình không? Lúc nhỏ cũng sốt cao một trận rồi mới thành như vậy, triệu chứng bệnh không khác với tiểu thư nhà họ Thẩm là mấy”.

Văn Thời gấp thư thả lại vào trong phong bì rồi ôm chiếc hộp kia đi tới bên cửa sân sau, đặt những lá thư đã từng bị chôn sâu dưới đáy giếng vào trong tay Lý tiên sinh.

Vị tiên sinh dạy học mặc áo dài kinh ngạc nhìn chiếc hộp đồng, đầu tiên nhìn đỉnh đầu một chút, như thể bản thân vẫn đang ngồi bên trong chiếc giếng sâu không thấy ánh mặt trời.

Ai ngờ gã lại trông thấy mái hiên và mặt trăng treo cao.

Ngón tay gã run rẩy mở hộp đồng, vội vàng lật giở đồ vật bên trong, nhìn thấy tên người gửi trên mỗi phong thư đều là Từ Nhã Dung mới chậm rãi buông thõng vai, sau đó ôm chặt chiếc hộp kia như ôm lấy toàn bộ gia sản.

Khoảnh khắc này, đám sương đen trôi bồng bềnh bên cạnh gã phấn chấn bừng bừng, giống như bầy rắn đột nhiên bị đánh thức, bắt đầu có dấu hiệu tàn phá bừa bãi.

Đây là dấu hiệu khi một người u mê ngây dại nhớ ra bản thân muốn điều gì.

Gã nhớ ra rằng bản thân luyến tiếc không nỡ, nhớ tới chấp niệm sâu nặng nhất trước khi chết, nhớ tới lý do mà gã vẫn quanh quẩn mãi trên thế gian chưa rời đi được.

Giống như Thẩm Mạn Di khi trước.

Sương đen bay tán loạn như lưỡi dao mỏng không thể khống chế, chúng sượt qua cánh tay Văn Thời để lại mấy vết cứa, vừa nhỏ lại vừa sâu hoắm. Nhưng Văn Thời không né tránh, cũng không bỏ đi.

Hắn cúi người hỏi Lý tiên sinh giữa đám sương điên cuồng tàn phá: “Thẩm Mạn Di mắc bệnh gì?”

Lý tiên sinh nhìn hắn, nhặt một nhánh cây viết nguệch ngoạc trên mặt đất: Không thể nhớ, không thể lớn.

Văn Thời quay đầu nhìn về phía Thẩm Mạn Di, cô bé đang nắm chặt ngón tay, ngửa đầu ngây ngô nhìn hắn.

“Em năm nay bao nhiêu tuổi?” Văn Thời hỏi.

Cô bé gập đầu ngón tay, rõ ràng đã gập tới lần thứ 16 nhưng lại khẽ nói: “11 tuổi.”

Cô bé suýt nữa chết cháy, lại tận mắt trông thấy bà Thái chăm mình lớn lên, may nơ con bướm cho mình treo cổ trên xà nhà.

Cửa sổ gian phòng kia hướng ra sân sau, trước kia cô bé hay chơi đánh đu trong sân, bà Thái ngồi bên cửa sổ thêu thùa may vá, thỉnh thoảng ngẩng đầu nhìn cô bé một chút, dặn bé đừng đu cao quá, cẩn thận té ngã.

Ngày hôm đó cửa sổ cũng mở, bà Thái vẫn ở bên cửa sổ nhưng lại bị treo rất cao. Gió thổi vào nhà, cơ thể trên sợi dậy chậm rãi xoay tròn một vòng.

Thẩm Mạn Di sốt li bì hơn nửa tháng và luôn ngủ mơ trong suốt khoảng thời gian ấy.

Cô bé mơ thấy mình lôi kéo em trai em gái và A Tuấn chơi trốn tìm, bé nghiêm túc chui xuống gầm giường trốn, quấn lấy tấm màn rủ xuống ngủ thiếp đi. Đợi đến khi tỉnh dẩy thì phát hiện xung quanh ngập tràn ánh lửa.

Cô bé mơ thấy bản thân bò ra khỏi đám lửa, thấy được đôi giày thêu treo rất cao của bà Thái.

Bé ngủ lâu ơi là lâu, mãi đến khi không mơ thấy những giấc mơ này nữa mới tỉnh lại. Từ đó về sau, thời gian của bé luôn ngừng ở mùa hè năm 1913.

Sốt cao đã để lại di chứng, em trai em gái và A Tuấn không ngừng lớn lên, chỉ có mình cô bé vẫn vậy. Quần áo rách, cô bé ôm váy ngồi trên giường trong phòng ngủ dưới tầng đợi bà Thái tới vá. Đu dây quá cao, cô bé sẽ quay đầu nhìn khung cửa sổ kia, vẫy tay về phía bên đó.

Lý tiên sinh không ép bé làm bài tập nữa, bà Thái cũng không còn dạy cô bé học nữ công, thế là cô bé có rất nhiều thời gian để chơi đùa.

Thật ra cô bé vẫn thích chơi đánh đu nhất, nhưng không biết vì sao người trong nhà luôn không vui, cô bé muốn chọc mọi người cười cho nên mới nghĩ ra thật nhiều trò chơi, kéo thật nhiều người chơi cùng.

A Tuấn là người không vui nhất, cho nên cô bé luôn dẫn nó theo cùng.

Dù sao cô bé cũng là chị cơ mà.

Mỗi tội người chị gái là bé không thể chơi cùng em trai em gái được bao lâu. Cô bé ra đi vào mùa hạ của vài năm sau, ngày hôm đó A Tuấn cực kỳ không vui cho nên cô bé dùng đủ mọi cách để pha trò, nô đùa đến khi bị giấu vào trong ghế sô pha.

Hôm đó là ngày 19 tháng 5, cùng ngày làn váy của bà Thái bay ra ngoài bệ cửa sổ.

Năm ấy Mạn Thăng và A Tuấn tròn 15 tuổi, vóc dáng cao cao như người lớn, còn cô bé vẫn là một con nhóc 11 tuổi.

Dưới đáy chiếc ghê sô pha kia đầy bụi bặm và mạng nhện, giống hệt như khi cô bé nằm trong gầm giường chơi trốn tìm, mỗi tội chơi trốn tìm không cần vặn gãy cổ và tay chân, không hề đau đớn như vậy.

Mọi thứ dường như là thời gian trôi nhanh, cuối cùng một mạng đền một mạng.

Cô gái nhỏ ngồi xổm cạnh cửa sân sau, biểu cảm ngây ngô dần nhạt bớt, khóe miệng chậm rãi chùng xuống.

Giờ phút ấy, những thứ kiềm chế trong lồng thoáng buông lỏng hơn chút, cả căn nhà rung chuyển như trận động đất tới bất thình lình.

Một vấn đề của Văn Thời đã thức tỉnh cô bé.

Hạ Tiều giật nảy mình, vừa ngồi xổm xuống ổn định cơ thể đã hoảng hốt nói: “Chuyện gì thế này?”

Tạ Vấn: “Lồng sắp tan biến rồi.”

Hạ Tiều: “Thật sao? Vì sao thế?”

“Cậu trốn sau tấm màn, trong tay cầm vài quả bóng, đột nhiên có mấy quả mất khống chế rơi ra ngoài. Liệu cậu có sốt ruột ra nhặt lên không?”

“Có chứ.”

“Chính là lý do đó.” Tạ Vấn nhấc chân đi sang phía Văn Thời, “Anh cậu đang dẫn dụ chủ lồng ra ngoài.”

Vừa nghe anh ta nói thế, Hạ Tiều đột nhiên cảm thấy xung quanh mình chỗ nào cũng không an toàn, đằng sau như thể luôn có người nhìn chòng chọc bọn họ, dù sao chủ lồng đến bây giờ vẫn chưa từng xuất hiện: “Hắn sẽ trốn ở đâu?”

Tạ Vấn không quay đầu nói: “Tất cả mọi chỗ, bất cứ nơi nào mà người có thể xuất hiện.”

Bất cứ?

Hạ Tiều thần kinh yếu quay đầu ngó nghiêng, sau đó vội vàng đuổi theo anh ta.

Tạ Vấn dừng bước bên cạnh Văn Thời, đưa tay gạt một mảng sương đen. Anh nghe thấy Văn Thời hỏi Lý tiên sinh: “Anh ôm hộp thư định đi đâu?”

Lý tiên sinh run rẩy dùng nhánh cây viết ba chữ trên mặt đất: Đồn cảnh sát.

Qua một lúc lâu, gã lại viết thêm hai chữ bên dưới: về nhà.

“Trước tiên đi đồn cảnh sát báo án, sau đó mang theo thư của anh về nhà, không bao giờ trở lại đây nữa phải không?”

Đã lâu lắm rồi Lý tiên sinh không nghĩ tới chuyện này, đến mức khi Văn Thời nói thẳng câu này ra, gã vô thức lùi về phía sau.

Đó là tư thế sợ hãi và bài xích.

Nhưng sau một hồi, gã vẫn nắm chặt tay gật đầu một cái.

Đúng vậy, suýt nữa gã quên mất, gã muốn tới đồn cảnh sát báo án, sau đó quay về nhà.

Gã không phải là người có lá gan lớn, cho dù phát hiện ra sự việc thì cũng sẽ không nói thẳng mặt. Lúc trước gã đã tính toán đâu vào đó, nhân dịp đêm hôm khuya khoắt, ôm lấy chiếc hộp đồng bảo bối của gã, cầm theo một bức thư giao cho đồn cảnh sát và trốn đi từ cửa sau, không làm kinh động tới bất kỳ ai.

Tường sân sau không cao, trên miệng giếng có kê một tảng đá, nhón chân nhảy một cái là ra được ngoài, với chiều cao của gã thì chỉ là chuyện nhỏ.

Sợ những người khác lo lắng suy nghĩ nhiều, gã còn để lại một tờ giấy trên bàn trà nói trong nhà có việc gấp nên tạm quay về.

Gã ôm thứ quan trọng nhất mò mẫm tới bên tường sân sau, không ngờ rằng đã có người ở đó đợi gã từ sớm.

Khoảnh khắc gã bị dây thừng tròng vào cổ và rơi vào trong giếng đã nghe thấy chiếc đồng hồ trong phòng khách nhà họ Thẩm kêu ‘đing đong’ hệt như tiếng chuông ở đầu đường hoàng tuyền.

Nháy mắt ấy, trong đầu gã xuất hiện rất nhiều suy nghĩ.

Gã nghĩ đúng ra mình không nên chỉnh giờ đồng hồ lùi về sau. Đêm nào quản gia cũng sẽ tỉnh dậy một lát khi nghe thấy tiếng chuông để uống nước. Nếu như không chỉnh thời gian thì quản gia sẽ tỉnh lại sớm hơn một chút, nhất định sẽ phát hiện ra tiếng động ở sân sau, cũng sẽ cứu được gã một mạng.

Gã lại nghĩ sau này Nhã Dung và bé con không nhận được thư của gã nữa liệu có khóc hay không.

Gã còn nghĩ nếu như đây chỉ là giấc mơ thì tốt biết mấy.

Đây chắc chắn chỉ là nằm mơ thôi.

….

Thế là mỗi một đêm trở về sau, khi tất cả mọi người chìm vào giấc ngủ, Lý tiên sinh đều sẽ ngồi dậy từ trên chiếc giường trong căn phòng kia. Gã sẽ để lại một lời nhắn trên giường cho quản gia, sau đó nhân lúc mọi người chưa tỉnh lại, gã sẽ tới tủ quần áo tìm hộp thư bằng đồng của mình.

Đó là tất cả tài sản của gã, chỉ cần cầm nó theo thì gã có thể rời khỏi nơi này. Nhưng gã tìm hằng đêm vẫn không tìm thấy nó.

….Cho tới hôm nay.

Gã ôm chặt hộp thư, dùng nhánh cây viết lần nữa: Hiện giờ tôi có thể về nhà chưa?

Khi chữ cuối cùng được viết xong, nhà họ Thẩm càng chấn động dữ dội hơn.

Hạ Tiều nhớ tới lời Tạ Vấn vừa nói, lặng lẽ đếm trong lòng: Hai quả bóng rơi xuống rồi.

Có lẽ chủ lồng đã bắt đầu sốt ruột, bởi vì cả tòa nhà đột nhiên xuất hiện màu đỏ vàng, trên tường rọi ánh lửa bập bùng, mấy bóng người lắc lư trong ngọn lửa.

Tiếp theo là tiếng đôm đốp giòn vang giống như tiếng củi khô cháy trong bếp lò.

Sau đó, làn gió nóng thổi tới từ sâu trong hành lang, sóng nhiệt bóp méo từng đường thẳng trong căn phòng.

Bọn họ dường như đang đặt mình trong một biển lửa kỳ quái——cái gì cũng có, chỉ không thấy lửa.

Cùng lúc ý nghĩ này xuất hiện, Văn Thời bỗng nhiên ngẩng đầu nhìn đầu hành lang ngược gió.

“Đóng cửa!!!” Có người gào lên từ đằng xa.

Giọng không to lắm nhưng truyền đi cực xa, đánh thẳng vào màng nhĩ.

Chữ ‘cửa’ còn chưa tan biến, một đám bóng người đã quẹo qua góc tường, chạy như điên tới!

Tiếng bước chân lộn xộn quanh quẩn trong hành lang, lộ ra vẻ căng thẳng và sốt ruột.

Người dẫn đầu chính là Đại Đông, hắn vừa chạy như điên vừa ra dấu, gào lên bảo: “Có lửa! Lửa cháy đến đít rồi!”

Đám người ngủ mê man trong phòng không chịu tỉnh kia không biết tỉnh lại kiểu gì, rõ ràng chẳng mấy mống người mà khí thế lúc chạy lại rầm rập ầm ầm.

Hạ Tiều không hiểu mô tê gì, la to về phía bọn họ: “Có chuyện gì thế?”

“Em nằm mơ!” Tôn Tư Kỳ mau chóng vượt qua Đại Đông chạy tới bên này, cậu ta lao quá nhanh, bổ nhào vào Hạ Tiều khiến cậu lùi lại mấy bước, va vào bức tường.

“Em là bà..bà gì đó!” Tôn Tư Kỳ ngọ nguậy, “Lúc đầu em muốn tới cái phòng nhỏ tra thêm dầu cho đèn trường minh, ai ngờ gian phòng kia bốc cháy!”

Hạ Tiều hoang mang: “Sau đó thì sao?”

Tôn Tư Kỳ vỗ đùi: “Sau đó cháy bùng lên thôi, cả tòa nhà đều bốc cháy!”

“Ai đốt?” Văn Thời hỏi.

“A Tuấn!” Tôn Tư Kỳ nói xong chợt sững người, có lẽ muốn sửa lời nhưng không còn kịp nữa rồi.

Cả căn nhà lại rung chuyển một lần nữa, cửa sổ tầng trên tầng dưới đều đập ầm ầm.

Thoạt nhìn, trạng thái này của Tôn Tư Kỳ chính là thông qua giấc mơ liên kết với người trong lồng, vô tình mơ thấy những việc mà bà vú nấu cơm nhà họ Thẩm từng trải qua. Tình huống này thông thường sẽ ngủ thẳng tới khi Văn Thời giải lồng, nhưng cậu ta lại có thể tỉnh dậy.

“Sao cậu tỉnh dậy được?” Văn Thời hỏi.

Tôn Tư Kỳ bụm mặt, quay đầu chỉ người đứng phía sau: “Lão Mao vỗ em mấy cái!”

Văn Thời ngẩng đầu nhìn, lão Mao chạy cuối cùng trong đám người. Khi hắn quẹo qua một chỗ rẽ và vọt tới đây, ngọn lửa giống như con rồng cuồn cuộn lao về phía bên này.

Lửa lớn lập tức nuốt sống mấy người tụt lại ở đằng sau.

Tôn Tư Kỳ và Hạ Tiều hít vào một hơi, máu trong người đông cứng.

Ngay giây phút đó, ngón tay buông thõng bên người của Tạ Vấn chợt động đậy. Chỉ nghe thấy một tiếng hót dài trong trẻo tuyền tới từ trong ngọn lửa như cơn gió thổi thẳng xuống dọc theo sườn núi, xuyên qua cả rừng tùng trải dài trăm dặm.

Một chiếc cánh to lớn mạ vàng quét ngang qua từ trong biển lửa, dấy lên bức tường gió với khí thế muôn người không thể phá nổi!

Lửa lớn ngập trời ập vào bức tường gió, đột nhiên bung ra như một bông sen lửa cỡ lớn, nhưng chẳng thể bắn được chút tia lửa nào lên người cả đám.

Đại Đông, Chu Húc và lão Mao chạy ra khỏi đám lửa, vẫn lành lặn không hề hấn gì dưới sự che chở của chiếc cánh kia.

Bọn họ hoảng sợ quay đầu lại trước ánh lửa bập bùng, trông thấy bóng mờ của một chiếc cánh vàng.
Erale: Cụ Trần uy vũ yê yê yê, cuối cùng cụ cũng bớt dựa 7749 chỗ, ra tay cứu đàn con thơ rồi (─‿‿─)

Bình luận

Truyện đang đọc