GIANG HỒ DẠ VŨ THẬP NIÊN ĐĂNG

Giác ngộ

Tàng Thư Các Thanh Khuyết Tông cũng không phải vùng cấm địa gì, bình thường mà nói, chỉ cần Tông chủ hoặc đệ tử giữa chìa cho phép là có thể vào, Tống Úc Chi chính là đệ tử giữ chìa thế hệ này.

Phóng tầm mắt nhìn tới, giá sách tầng tầng lớp lớp cao chọc xà nhà trưng bày các loại điển tịch võ công tâm pháp Thanh Khuyết Tông, còn có những kỷ yếu tổ tiên cùng chuyện xưa võ lâm hơn hai trăm năm, cộng thêm những chuyện góc tối linh tinh rải rác, nếu không có người quen thuộc chỉ điểm, người tự dưng bước vào không thể tìm ra giữa mớ sách vở phong phú lộn xộn tìm ra thứ cần.

Thái Chiêu từng nghe Mộ Thanh Yến kể, thật ra Cửu Châu Bảo quyển Các của Ly Giáo cũng một chiêu giống vậy, nhất là so với sáu phái Bắc Thần họ còn không từ thủ đoạn, tích lũy hơn hai trăm năm võ học âm quỹ và bí mật hắc ám càng vô số kể.

Về sau, Giáo chủ đương nhiệm thường chỉ biết đến bản ghi chép hai đời trước, nhưng Cửu Châu Bảo quyển Các luôn là vùng cấm địa người rảnh rỗi miễn vào, nếu muốn biết chuyện xa xưa hơn, Giáo chủ đại nhân buộc phải tự mình xắn tay áo, lật mấy cục sách sử dày như cục gạch, đâm chùy cột tóc lên xà nhà chiến đấu anh dũng với mớ sổ sách chồng chất như núi.

Mờ mịt thanh u lượn lờ trên lư hương, Thái Chiêu ngồi sau bàn kiên nhẫn lật những tờ giấy dầu ố vàng mỏng như cánh ve.

Tống Úc Chi trèo lên thang dỡ mấy quyển trục bám đầy bụi bẩn không biết thứ mấy từ kệ trên cao xuống, mở ra lấy mấy tờ giấy mỏng ném tới trước mặt Thái Chiêu, “Đây là mấy tờ cuối cùng, bản ghi chép riêng tư của ông ngoại đều ở đây, ghi chép còn lại đều được quang minh chính đại ghi vào trong sách tịch Tông môn.”

Thái Chiêu không kìm được tán thưởng, “Thảo nào có câu cây nấp trong rừng, trốn giữa phố thị rộng lớn, cho dù có người biết Doãn Lão Tông chủ có để lại bản ghi chép bí mật, có cào rách da đầu cũng không tìm được.”

Tống Úc Chi cho rằng cô bé đang châm chọc ông ngoại mình, đành giải thích: “… trước khi lâm chung mẹ ta từng nói, những tin tức này liên can trọng đại, ông ngoại sợ người ta biết sẽ xảy đến ồn ào sai lầm nào đó.”

Thái Chiêu nhặt một tấm giấy mỏng trong đó quơ quơ, cười nói: “Chuyện này mà tiết lộ ra, Tứ Kỳ Môn sẽ ồn ào nhiễu loạn thật.”

— Lão già Tiền chưởng môn Tứ Kỳ Môn Dương Nghi mà mộ phần đã mọc cây đại thụ, lúc trẻ tư thông với mớ ái thiếp của cha, sao lại bảo là ‘mớ’ nhỉ, vì cha ông ta tổng cộng có tám ái thiếp, ông ta tư thông hết bảy. Sở thích hai cha con rất một lòng nhỉ.

Tống Úc Chi cụp mắt liếc qua, hiểu ra cô gái đang nhắc tới chuyện nào, khuôn mặt tuấn tú lập tức đỏ bừng.

Cần phải tán thưởng, Doãn Lão tiền bối là một người học vấn rất nghiêm túc khảo chứng.

Tỷ như chuyện Dương Nghi tư thông với thiếp của cha này, lúc ấy Doãn Đại cũng chỉ là một đệ tử, không thể phái người đi tới dưới giường Dương công tử nghe lén, ông là dựa vào suy đoán từ dấu vết các loại cho ra kết luận, người hầu thiếp thứ tám vì không đủ chứng cứ nên Doãn Đại rất nghiêm cẩn không tính bà vào, chỉ viết một câu ‘không rõ dấu vết’.

“Ông ngoại huynh hành văn hay thật đấy.” Thái Chiêu liên tiếp đọc mấy bí mật quá khứ, phát hiện Doãn lão đầu viết sinh động như thật lời lẽ êm tai, vừa kinh dị lại có huyền nghi, không thiếu truyền kỳ diễm tình, Tiểu Thái nữ hiệp trong phút chốc lạc về trong mơ ở Lạc Anh Cốc, cảm giác bừng tỉnh thấy mình cuộn người trong chăn ăn quà vặt xem thoại bản.

“Tử Vi Tâm Kinh được ghi lại ở đây sao?” Cuối cùng cô vẫn nhớ chuyện chính, tìm dưới cùi chỏ một tờ giấy dầu mỏng còn để trắng nhiều.

Vẻ mặt Tống Úc Chi phức tạp: “Ừm.”

Khác với mấy bí mật khác nói nhăng cuội khác, Tử Vi Tâm Kinh chỉ được ghi chép trên mỗi một tờ giấy.

Doãn Đại đúng là không nói rõ đây là tà công Nhiếp Hằng Thành luyện ở tuổi già, chỉ nói ‘Người Ma giáo xưa kể lại một môn công phu tên gọi Tử Vi Tâm Kinh, uy lực to lớn, tà môn vô cùng’.

Căn cứ vào điều tra ngoài sáng trong tối của lão, thậm chí không tiếc đưa hết nhóm tử sĩ này đến nhóm tử sĩ khác mà mình khổ tâm nuôi dưỡng vào Ma giáo làm mật thám, còn cố đọc hết ghi chép của tiền bối sáu phái để lại, sau khi tổ hợp tin tức đạt được một số kết luận —

Tử Vi Tâm Kinh là công pháp thần diệu do Giáo chủ đời thứ nhất của Ma giáo Mộ Tu Quyết lưu truyền, chẳng những chính ông ta biết, mà trưởng tử cũng biết. Sau khi ông ta chết không lâu, trưởng tử người yếu cũng bất ngờ chết sớm, lúc này Mộ Lan Việt tuổi đời mới qua nhược quán* lên kế vị.

(*) tuổi hai mươi, tuổi trưởng thành của đàn ông.

Nhưng Mộ Lan Việt không thể tu luyện Tử Vi Tâm Kinh.

Ly Giáo tuyên bố ra bên ngoài rằng những người con còn lại của Mộ Tu Quyết đều lánh đời ẩn cư, nhưng thật ra chỉ có một nửa là thật.

Bọn họ đúng là không thích phân tranh giang hồ, cố ý rời dãy Hãn Hải từ lâu, nhưng đã là người tập võ cũng không ngừng tu luyện, nhưng đại đa số bọn họ trong lúc tu luyện Tử Vi Tâm Kinh đều tẩu hỏa nhập ma, không chết cũng tàn phế.

Nhìn thấy cái kết thảm liệt của đám thủ túc, Mộ Lan Việt đành phải tuyên bố với con cháu đời sau rằng Tử Vi Tâm Kinh không thể tu luyện, nhưng vì không nỡ bỏ di vật của tiên phụ, hắn cũng không tiêu hủy đi bí tịch Tâm Kinh.

Ai ngờ truyền đến Giáo chủ đời thứ sáu Mộ Tung, dưới gối có một con trai thiên chất siêu quần, vốn là người được chọn để kế nhiệm Giáo chủ không có kẻ thứ hai, hầu như ông ta đã luyện thành Tử Vi Tâm Kinh, nhưng ngay sau đó qua đời rất thần bí, nguyên nhân cái chết không rõ.

Sau đó Mộ Tung bệnh nặng một trận, khi khỏi bệnh tự tay thiêu hủy một khu vườn sau núi trong cung Cực Lạc, sau đó bắt đầu đắm chìm trong tu đạo luyện đan, cho đến khi chết bất đắc kỳ tử trong đan phòng. Về sau nữa chính là mấy đứa con trai con rể tranh vị, Mộ Ức Nông dưới sự trợ giúp của nghĩa huynh đã giành phần thắng.

Ghi chép Tử Vi Tâm Kinh dừng tại đây, đến cuối Doãn Đại kèm một hàng chữ nhỏ: “Đã lần lượt kiểm tra qua nhiều giấy tờ, không nghe thấy hành vi tàn sát trắng trợn khi ấy.”

Thái Chiêu chấn động trong lòng, ngẩng lên: “Nói cách khác, người con trai của Mộ Tung không giống Nhiếp Hằng Thành hấp thụ rất nhiều tinh nguyên nội lực của các cao thủ mà vẫn có thể luyện thành Tử Vi Tâm Kinh?!”

“Đúng.” Tống Úc Chi nói, “Nếu lời Lộ Thành Nam không sai, vậy thì hẳn là Nhiếp Hằng Thành đã luyện sai.”

Thái Chiêu lẩm bẩm nói: “Người đó sao mà làm được, muốn gạt một nhân kiệt đương thời như Nhiếp Hằng Thành cũng không dễ…” Cô sực nhớ đến một chuyện, “Thì ra Doãn Lão Tông chủ đã sớm biết rủi ro gây ra khi Nhiếp Hằng Thành luyện công.”

“Không chỉ thế.” Tống Úc Chi đưa tới một tờ giấy mỏng nữa, “Ông ngoại còn suy tính ra tuổi thọ của Nhiếp Hằng Thành nhiều nhất chỉ còn năm ba năm.”

Sau khi Lộ Thành Nam bị thương trốn đi, Nhiếp Hằng Thành càng thêm nóng nảy cuồng loạn, ngược sát vô độ, nhưng dù điên, thi thoảng dính phải bệnh vặt như phong hàn đau đầu cũng phải xem bệnh. Để giữ kín tình trạng cơ thể, đương nhiên Nhiếp Hằng Thành không để đại phu sống sót. Nhưng lão không biết, trong số đại phu chết oan này đang có hai tử sĩ của Doãn Đại.

Hai tử sĩ này một trước một sau bắt mạch xong cho Nhiếp Hằng Thành, trước khi chết đã truyền tin tức quan trọng qua ám tuyến trong giáo ra ngoài, Doãn Đại từ đó suy đoán: Thần trí Nhiếp Hằng Thành đã hỏng, kinh mạch rối loạn, không còn sống bao lâu nữa.

“Sau khi ông ngoại phát hiện Nhiếp Hằng Thành tu luyện công pháp quỷ dị, đã hao tốn mấy năm chôn một ám tuyến bí mật vào nội bộ Ma giáo, đây gần như đã tốn hết tất cả tử sĩ tâm phúc đắc lực nhất của ông.” Tống Úc Chi nói nhỏ, “Nếu không thế, ông ấy cũng đã không chết thảm trong cạm bẫy tập sát của Triệu Thiên Phách và Hàn Nhất Túc.”

Thái Chiêu hiểu ra: “Do đó không phải ông ngoại huynh chắc chắn là cô tôi có thể đánh chết Nhiếp Hằng Thành, mà xem ra nếu cô cô không giết được Nhiếp Hằng Thành, lão ta cũng không sống nổi mấy năm, cho nên ông ta mới không bố trí thêm người giúp cô tôi…”

Tống Úc Chi xấu hổ không biết phải làm thế nào: “Xin lỗi, thật sự xin lỗi.”

Cảm xúc Thái Chiêu chập trùng, cơn oán giận dâng cao, đứng dậy đi mấy bước, cuối cùng cô khẽ rùng mình ngồi xuống: “Tam sư huynh đừng suy nghĩ nhiều, nếu cô cô tôi biết chuyện, bà cũng sẽ lên Đồ Sơn tru sát Nhiếp Hằng Thành. Nhiếp lão tặc nổi điên một năm, võ lâm đã máu chảy thành sông, điên thêm năm ba năm thì không biết thiên hạ lại có bao nhiêu người vô tội phải chết nữa.”

Tống Úc Chi càng thêm xấu hổ, nhưng y cũng không giải thích, chỉ yên lặng nghe.

Nhớ đến Thái Bình Thù vàng như nến tiều tụy triền miên bên giường bệnh, Thái Chiêu nghiêng đầu chùi nước mắt bên khóe mắt, cô đè tim mình, cố hít thở cho thông, sau mấy hơi mới nói: “Tam sư huynh, tôi muốn xem hồ sơ dấu vết Ma giáo mấy năm đó.”

“Có, có.” Tống Úc Chi nói lia lịa, “Mấy chuyện này không được ghi trong bản chép tay riêng tư mà được ghi rõ trong ghi chép của Tông môn.”

Y dừng đoạn, “Ta vẫn muốn công bố mấy ghi chú này, chỉ lo danh dự của ông ngoại bị tổn hại, nên muốn chờ sau này ta lên làm… sẽ bổ sung ghi chép ấy vào sách sử Tông môn sau.”

Mấy ngày sau, Thái Chiêu vẫn cẩn thận đọc ghi chép mấy năm, Tống Úc Chi thì càng lúc càng sốt ruột, vì bồ câu đưa thư y gửi đi Quảng Thiên Môn hỏi thăm cha đến nay chưa có hồi âm.

“Tam sư huynh đừng đi tới đi lui mãi thế, làm tôi váng cả đầu. Với thực lực của Quảng Thiên Môn, trừ phi Dương Hạc Ảnh nắm đủ nhân chứng vật chứng, không thì ai có thể làm khó dễ lệnh tôn chứ.” Thái Chiêu cúi đầu đọc hồ sơ, câu được câu không trấn an.

Lúc này, Phàn Hưng Gia bỗng hối hả vọt vào, thở hổn hển nói: “Tam sư huynh không xong rồi! Đệ tử Quảng Thiên Môn gần đây đến báo, nói Dương Môn chủ Tứ Kỳ Môn tìm được chứng cớ nhà của anh dùng người sống luyện chế thi khôi nô! Chẳng những họ đào ra mấy cái xác thôn dân chết bởi kiếm chiêu Quảng Thiên Môn mà còn bắt được mười thi khôi nô!”

Thái Chiêu sửng sốt, “Đúng là nhân chứng vật chứng cũng lấy được hả.” — mình đúng là miệng quạ đen.

Sắc mặt Tống Úc Chi lập tức trắng bệch.

“Lý sư bá đã dùng bồ câu đưa tin cho sư phụ, ông ấy bảo tôi đến báo anh biết.” Phàn Hưng Gia dùng tay áo lau mồ hôi trên trán.

Tống Úc Chi ổn định tinh thần, “Ta đi chào từ biệt Lý sư bá, ta muốn về nhà một chuyến. Hưng Gia cậu đi cùng ta đi, nói không chừng sẽ có bị thương rất nhiều trong hỗn loạn, đến chừng đó phải cần đến cậu.”

Phàn Hưng Gia giật nảy, miệng nói cũng tốt, thật ra trong lòng không tình nguyện lắm.

Lòng Thái Chiêu chợt động, ngón tay điểm ở một chỗ nào đó trong mớ hồ sơ, điềm nhiên như không đứng lên nói: “Tôi cũng đi, thêm một người thêm một trợ giúp.”

Tống Úc Chi lưỡng lự.

Thái Chiêu cười hòa ái dễ gần: “Tam sư huynh, không phải tôi tự biên tự diễn chứ, miệng tôi lanh lẹ, tu vi cũng tạm, dù là cãi nhau hay là đánh nhau, cũng là trợ giúp hiếm có đấy.”

Tống Úc Chi không khỏi rục rịch.

Thái Chiêu lại thêm một mồi lửa, “Tam sư huynh nghĩ xem. Nhị sư huynh theo Lăng Ba sư tỷ về nhà, Tứ sư huynh theo sư phụ ra ngoài, Đại sư huynh ngày ngày rất bận rộn, bây giờ huynh với Ngũ sư huynh cũng muốn đi. Trong nội môn này chỉ còn mình tôi, huynh yên tâm để tôi lại một mình à?”

Tống Úc Chi nhắm cặp mắt, “Được, muội cũng đi cùng, nhưng không được trao đổi với người trong Ma giáo, tránh làm sư phụ tức chết.”

Thái Chiêu cười tủm tỉm: “Tam sư huynh yên tâm, ngoại trừ Giáo chủ bọn hắn, tôi từng trao đổi với người trong Ma giáo thứ hai bao giờ.”

Tống Úc Chi cảm thấy mình bị làm tức chết trước đã.

Phàn Hưng Gia cũng không yên tâm lắm: “Chiêu Chiêu sư muội, cô thật sự chia tay họ Mộ à.”

“Dĩ nhiên.” Thái Chiêu cam đoan đầy miệng, “Bọn tôi chia tay hòa hòa thuận thuận, không chút oán hận. Sau này núi cao sông dài, lắng nghe theo mệnh trời.”

Tống Úc Chi khẽ thầm thả lỏng, trước khi quay ra cửa lại trở ngược lại, móc trong ngực ra một thứ đặt vào trong tay Thái Chiêu.

Y cười nói: “Lúc muội đi cứu… tên kia, ta dọc theo mấy thôn trấn hai người bỏ trốn mò mẫm một vòng, tìm được cái này. Ta nghĩ đồ của muội không nên lưu lạc bên ngoài, mới chuộc về cho muội.”

Trong bàn tay trắng nõn là một sợi xích vàng mảnh dẻ tinh xảo, gom thành một khối nhỏ. Thái Chiêu miễn cưỡng cười, nắm chặt lòng bàn tay: “Đa tạ Tam sư huynh, vài bữa nếu tôi không có bạc thì có thể lại cầm một lần nữa.”

Tống Úc Chi cười: “Có ta ở đây, sao lại để muội phải cầm đồ chứ.”

Thái Chiêu tiện tay ném xích vàng vào túi bên hông, bình tĩnh nói: “Nói cũng phải, việc ngốc nghếch như thế sao tôi lại làm một lần nữa chứ.”

*

Mộ Thanh Yến nấn ná lại trại Phục Ngưu mấy ngày, chẳng những sai người sửa cửa trại đã bị đập phá, còn phái Quỷ Y Lâm Thuật chữa khỏi bệnh cũ năm xưa của Tiết lão phu nhân. Tiết Hữu Phúc vô vàn cảm động, Mộ Thanh Yến than nhẹ: “Tiết lão phu nhân lương thiện hiền hoà, vốn nên được người tôn kính. Nếu tiên tổ mẫu u Dương phu nhân có ba phần của lệnh đường, rất nhiều chuyện sẽ không giống vậy…”

Lúc nghe thấy bốn chữ ‘ u Dương phu nhân’, trái tim Tiết Hữu Phúc treo ngược.

Con ngươi trong trẻo của Mộ Thanh Yến chăm chú, “Ta biết, ông cũng biết, quan tài của gia tổ mẫu trống rỗng.”

Tiết Hữu Phúc lập tức đổ mồ hôi: “Đúng vậy, là bởi vì…”

“Mộ Chính Dương đã lấy di cốt bà đi đâu rồi.” Giọng Mộ Thanh Yến bình thản như thường, lại như sấm rền san bằng mọi thứ, đánh chết Tiết Hữu Phúc cũng không dám ngẩng lên, “Chính Dương ca, anh ấy, anh ấy…”

Mộ Thanh Yến bình tĩnh hỏi: “Hay đã bị Mộ Chính Dương nghiền xương thành tro, ném xuống mương bẩn rồi?”

Mặc dù không trúng, nhưng không xa mấy — tra cứu cẩn thận, bi kịch cả đời Mộ Chính Dương chính là do sự hẹp hòi và điên cuồng của mẹ ruột u Dương Tuyết mà ra, theo Mộ Thanh Yến thấy, sự trả thù này không tính là quá phận.

Tiết Hữu Phúc lo lắng giải thích: “Không thể trách Chính Dương ca, anh áy vô duyên vô cớ chịu nhiều khổ sở vậy đều bởi vì u Dương phu nhân làm chuyện không giống con người! Dù rằng vợ chồng cãi nhau đến mức nào, vô liêm sỉ mới dùng đứa nhỏ vô tội ra trút giận, bất kể nam hay nữ, ông đây gặp tên nào làm thịt tên đó!”

Ngữ điệu Mộ Thanh Yến càng thêm ôn hòa: “Tiết Đại đương gia không cần vội, ta hiểu — trên đời này cũng không phải tất cả bậc phụ mẫu đều xứng làm cha làm mẹ. Cùng là một người mẹ, Tiết Lão phu nhân vì con trẻ khổ sở gì cũng chịu nếm trải, nhưng tiên tổ mẫu lại tự dưng trẻ con giận chó đánh mèo, cuối cùng ủ thành đại họa… Ôi…Tiết Đại đương gia à, ông phải thật hiếu thuận với lão phu nhân, bà đã chịu nhiều khổ cực thế, phải trường thọ an khang.”

Câu nói suýt làm Tiết Hữu Phúc rơi hết cả nước mắt.

Mộ Thanh Yến kiên nhẫn nói: “Bây giờ Nhiếp Hằng Thành chết rồi, ông cũng chẳng cần trốn đông trốn tây, chôn trong cái xó nghèo này làm nghề cướp trại. Nếu ông có ý, ta sẽ tìm cho ông một chỗ an cư xuân về hoa nở, có thể phụng dưỡng lão phu nhân, còn dễ nuôi dạy con trẻ.”

Tiết Hữu Phúc cảm động không thốt ra lời.

Nhìn khuôn mặt tuấn tú giống người anh em thân thiết như đúc, gã tự nhiên nảy ý gần gũi dễ hiểu, nghĩ thầm người ta làm Giáo chủ, không hung ác chút lợi hại chút, còn trẻ thế làm sao mà chèn ép được một đám yêu ma quỷ quái cơ chứ.

Hôm sau trời vừa sáng, Mộ Thanh Yến sắp đưa người rời đi. Tiết Đại đương gia trằn trọc trên giường cả một đêm đội một đôi mắt đen ngòm đưa tiễn, mấy lần định nói lại thôi, cuối cùng đương lúc Mộ Thanh Yến sắp ra cửa trại không kìm được nói: “Xin Mộ Giáo chủ mượn một bước nói chuyện.”

Mộ Thanh Yến vui vẻ đồng ý.

“Giáo chủ còn nhớ ta có kể với ngài, lần thứ hai gặp mặt Chính Dương ca chứ?” giọng Tiết Hữu Phúc hơi run run.

Mộ Thanh Yến mỉm cười: “Tất nhiên là nhớ, ông bảo ông ấy rất vui, còn đưa tới một gốc Tuyết Linh chi bồi bổ thân thể cho lão phu nhân.”

“Ta với Chính Dương ca quen biết lâu như vậy, chưa từng thấy anh ấy vui vẻ đến thế. Cả đời anh ấy, không có mấy chuyện làm anh ấy hào hứng.” Tiết Hữu Phúc buồn bã nói, “Đêm đó, chúng ta uống một mạch mười mấy vò rượu, lúc say mơ màng, Chính Dương ca có nhắc đến một chỗ…”

Mộ Chính Dương là người cực kỳ cẩn thận, không thì cũng không thể ẩn núp ngay dưới mắt Nhiếp Hằng Thành lâu như vậy.

Dầu hắn nói với Tiết Hữu Phúc rất nhiều thứ, nhưng chưa từng nhắc tới tên người hay tên địa danh liên quan cụ thể đến sự việc. Cho đến bây giờ Tiết Hữu Phúc cũng không biết ‘Tiểu Thục’ cô nương kia họ gì tên gì là ai, thậm chí ngay cả Mộ Chính Dương mất tích cũng không biết đi đâu tìm người.

Chỉ có đêm đó — kế hoạch sơ bộ thành công, người trong lòng lưỡng tình tương duyệt, hầu như tất thảy đều đi theo chiều hướng tốt, Mộ Chính Dương tin tưởng mình sắp thoát khỏi vận rủi, cao hứng cực kỳ.

“Chính Dương ca vẫn cứ mãi dông dài bảo ta chăm sóc mẹ thật tốt, mai này sẽ có ngày tốt lành. Sau đó ta có nói, ‘Gần đây xương cốt thân thể mẹ đã khỏe rồi, ngược lại là anh đấy, đừng có cố mạo hiểm đi cái chỗ rách nát tuyết lớn gì đó nữa’.”

“Chính Dương ca hàm hàm hồ hồ đáp ‘Không được không được, còn phải đi một chuyến ‘đầm Tuyết Chiểu’ gì đấy…”

Mộ Thanh Yến sáng rực mắt: “Đầm Tuyết Chiểu?!”

“Đúng vậy a, lúc ấy ta còn nghĩ, núi tuyết cũng có đầm lầy ư?” Tiết Hữu Phúc gãi gãi đầu, “Sau khi Chính Dương ca tỉnh rượu nhớ lại việc này, nghiêm khắc căn dặn ta không được nói ra, ta đã cắn nát ngón tay nhận lời. Mộ Giáo chủ, chuyện này quan trọng lắm à?”

Mộ Thanh Yến mỉm cười nói: “Có quan trọng đi nữa, cũng đã là chuyện mười mấy năm trước.”



Chờ Tiết Hữu Phúc đi xa, Du Quan Nguyệt sang thấy Mộ Thanh Yến đang lẳng lặng đứng bên vách núi sừng sững. Y vừa định lên hồi bẩm, lại nghe Mộ Thanh Yến nói: “Anh chuẩn bị một chút, chúng ta gọn nhẹ lên đường, đi đầm Huyết Chiểu một chuyến.”

Du Quan Nguyệt trong thoáng chốc không kịp phản ứng: “Đầm gì cơ?”

“Máu của đổ máu, Đầm Huyết Chiểu.”

Du Quan Nguyệt nhớ tới cái tên này, y nhíu mày: “Là chỗ đó à.”

Trong mắt Mộ Thanh Yến lấp lánh: “Không sai, chính là phía sau núi Bắc Quảng Thiên Môn, mảng đầm lầy lớn nhốt giữa chốn rừng rậm Đầm Huyết Chiểu.”

(*)沼 Chiểu: ao, đầm. Ở đây bả dùng Huyết Chiểu trạch và sau này là Huyết Chiểu cũng là Huyết Chiểu nhưng mình để tên Hán Việt, thi thoảng chuyển sang Đầm Máu; cũng giống như đỉnh núi Tuyết, thi thoảng mình cũng để Tuyết Lĩnh Đại Tuyết Sơn vì nhắc tới như danh từ riêng. Hồi nào mình rà lại chỉnh lại luôn.

Bình luận

Truyện đang đọc