GIANG HỒ DẠ VŨ THẬP NIÊN ĐĂNG

ội lỗi và trừng phạt. thượng

Có lẽ vì được xây dựng bởi tay một người thợ công tượng vĩ đại, cung Cực Lạc và cung Mộ Vi có cấu trúc vô cùng tương tự, đều là trước ba tầng sau ba tầng, điện chính ở chính giữa, bảy tòa điện phía sau hai bên trái phải đều có một tòa thiên điện. Nơi ở Giáo chủ các đời thường được bố trí ở thiên điện trọng pháp thứ tư, nằm chính giữa toàn cung, để toàn quyền nắm giáo vụ trong tay.

Nhưng sau khi ái thê của ông cố Mộ Thanh Yến mất sớm, tránh thấy cảnh sinh tình, bèn đưa người con trai độc nhất đến ở trong điện Vô Ngung nằm phía trong cùng nhất. Sau đó người con trai độc nhất thành hôn, tự chủ trương cưới một cô con dâu tính nết bướng bỉnh như thép như lửa, cháu trai Mộ Chính Minh ra đời, lớn lên, lại lấy vợ sinh con… Người ba đời vui buồn sướng giận đều quanh quẩn ở góc điện Vô Ngung yên ả thanh tịnh này.

Từ khi Mộ Chính Minh đưa Mộ Thanh Yến ẩn cư ở Bất Tư Trai đỉnh Hoàng Lão, nơi đây không còn ai ở nữa.

May mà Du Quan Nguyệt là nhân tài xử lý việc vặt bậc nhất thiên hạ, chỉ mất nửa ngày đã dọn dẹp góc điện bị bỏ hoang hơn mười năm được bảy tám phần, không chỉ để Chủ Quân nhà mình có thể yên trí đi vào, mà còn có chỗ chứa mấy người bị thương quan trọng.

Đến chừng Du Quan Nguyệt rốt cuộc đã dành chút thời gian trống thay ra bộ xiêm y đầm đìa máu để bới miếng cơm, dãy Hãn Hải mênh mông đã được màn đêm xanh thẫm bao phủ. Trên đầu li ti sao đầy trời, Du Quan Nguyệt mệt mỏi khôn xiết vẫn ôm ấp suy nghĩ tha thiết của một tâm phúc của Tân quân, không để ý giờ đã là nửa đêm, chạy thẳng đến chỗ Mộ Thanh Yến nhận lệnh, nào ngờ vừa lúc nhìn thấy người Tân chủ quân kính yêu kia đang bị Thái Chiêu ra sức đẩy ra cửa phòng.

Tiểu cô nương đầu tóc rối bù hai mắt đầy tơ máu cảm xúc tồi tệ, sau khi ném qua khe cửa một câu ‘Tôi đã buồn ngủ muốn chết rồi là người hay là quỷ cũng không được ồn ào nếu không tôi cho ăn một đao đấy’, rồi rầm một tiếng đóng cửa phòng, suýt thì kẹp mũi Mộ Thanh Yến.

Du Quan Nguyệt thấy thế, quay đầu lặn cho lẹ.

Mộ Thanh Yến trái lại không chút để ý kêu anh ta lại, Du Quan Nguyệt thấy tình thế vội bẩm báo, “Vây cánh Nhiếp thị ở quan ải các nơi và trong cung Cực Lạc đều đã cúi đầu chịu trói cả, còn dư đảng lẻ tẻ vì không kịp về viện trợ cho Nhiếp Đề vẫn còn rải rác bên ngoài. Ti chức cho là bọn chúng chẳng làm được trò trống gì, có thể để từ từ mai này bắt giết.”

“Từ sau cuộc chiến sông Thanh La, đại thế bọn chúng đã mất. Mấy thứ còn lại chẳng qua cũng chỉ là giòi bọ sống nhờ xác thối Nhiếp Hằng Thành thôi, từ từ trừng trị sau.” Mộ Thanh Yến hỏi chuyện khác, “Đồ đã mang đến chưa?”

Du Quan Nguyệt lập tức dâng lên một chiếc hộp nhỏ bằng gỗ hoàng dương, bên ngoài hộp như có đọng một lớp sương trắng thật mỏng.

Mộ Thanh Yến nhận hộp, “Tình hình Tống công tử thế nào?”

“Chập tối đã tỉnh, uống thuốc xong lại ngủ rồi.” Du Quan Nguyệt đã từ chỗ Thượng Quan Hạo Nam biết được thân phận của Tống Úc Chi.

Mộ Thanh Yến gật đầu: “Vậy chúng ta đi gặp Tống công tử một chút.”

Du Quan Nguyệt mấp máy môi dưới, anh ta vốn dĩ muốn nói dầu gì Tống Úc Chi cũng đang bị thương, đêm hôm khuya khoắt đánh thức người ta không tốt lắm đâu.

Nhưng cuối cùng anh không nói ra miệng.

Ai ngờ vừa tới điện phía Tây, đã thấy phòng của Tống Úc Chi chong đèn sáng trưng, như đang đợi người.

Mộ Thanh Yến cười bước vào phòng: “Đang bị trọng thương mà Tống huynh vẫn giữ phong độ tốt, thật sự là đáng mừng.”

Du Quan Nguyệt liếc sang Tống Úc Chi đang ngồi dựa vào giường mềm, thấy sắc mặt y tái nhợt, gò má phượng hốc hác, không che được vẻ yếu ớt bị thương nặng mới khỏi, chỉ trừ một đôi mắt đen thui thâm trầm có lực.

“Ta đoán giờ này hẳn Thiếu Quân sẽ tới.” Y nói khẽ.

Mộ Thanh Yến ngồi vào đối diện y, “Thương thế Tống huynh thế nào rồi?”

“Đều là vết thương da thịt gân cốt bên ngoài, cũng không tổn thương tới đan điền vốn có, nghỉ ngơi nửa ngày sẽ có thể đi lại.” Tống Úc Chi rất rõ ý đối phương, thẳng thắn nói trước, “Sư muội đâu? Cô ấy không sao chứ.”

Mộ Thanh Yến mỉm cười: “Chiêu Chiêu rất ổn, vừa nãy ta vốn muốn tìm nàng ấy đi chung đến gặp Tống huynh, nào ngờ lại bị nàng mắng chửi một chặp, còn nói là ngủ không đủ.”

Tống Úc Chi không kìm được quan sát nụ cười đầy ẩn ý của thanh niên tuấn tú trước mắt.

Y và Mộ Thanh Yến đã quen biết nhau trước cả Thái Chiêu, ít nhiều biết chút tính xấu của đối phương— Mộ Thanh Yến là thể loại cực phẩm mình không thoải mái thì không thể nhìn người ta thoải mái còn mình đã sung sướng cũng vẫn không muốn người ta được sung sướng, lại hoàn toàn không thèm che giấu vẻ chanh chua cay nghiệt của bản thân mình.

Ngày xưa mình chỉ cần nói thêm Thái Chiêu một câu, thì hắn ta sẽ cái mũi không phải cái mũi con mắt không phải con mắt, thế mà giờ lại thái độ hòa nhã cứ như là hai người, cứ như Mông Sơn*, một lớp mặt nạ cười ôn nhuận ấm áp, thật không thể nhìn ra sâu cạn.

(*) dãy núi lớn nhất Sơn Đông, đỉnh cao thứ nhì.

Mộ Thanh Yến nói, “Tống huynh trong cơn nguy nan đã cứu vài Giáo chúng của ta, phần ân tình này ta nhớ rõ, sau này chắc chắn sẽ đền đáp.” Thượng Quan Hạo Nam là thuộc hạ của hắn, khoản ân tình này dĩ nhiên do Chủ quân gánh vác.

“Hành hiệp trượng nghĩa vốn dĩ là trách nhiệm chúng ta tận sức làm, Thiếu Quân không cần để ý.” Tống Úc Chi khoát tay, “Không biết Tử Ngọc Kim Quỳ kia…”

“Ta đang định nhắc đây.” Mộ Thanh Yến nói, “Ta đã sai người mở bảo khố rồi, tỉ mỉ tìm một trận, nhưng mà…” Hắn dừng đoạn, “Nhưng tìm khắp nơi mà không tìm được Tử Ngọc Kim Quỳ.”

Tống Úc Chi giật mình: “Tìm khắp mà không có? Tử Ngọc Kim Quỳ không ở quý giáo?” Về tung tích của Tử Ngọc Kim Quỳ thật ra y cũng chỉ suy đoán, muốn bằng chứng thì không có.

“Chả lẽ Thái nữ hiệp không trả lại Tử Ngọc Kim Quỳ?” Hiện giờ chuyện duy nhất có thể xác định, đó là người sau cùng cầm tới Tử Ngọc Kim Quỳ là Thái Bình Thù.

“Hiện giờ nhân sự trong giáo hỗn loạn, vài chỗ nhỏ hẹp còn chưa biết.” Mộ Thanh Yến lắc đầu.

Trước vẻ mặt tràn trề thất vọng của Tống Úc Chi, hắn lấy hộp gỗ nhỏ đọng sương trắng ra đẩy lên bàn, “Có thứ này xin Tống huynh nhận lấy.”

Tống Úc Chi nhận hộp gỗ, mở ra xem, trong hộp là một viên ngọc thạch lớn bằng lòng bàn tay, cả viên trắng như tuyết, hàn khí bức người, toát cả khí sương lạnh ra ngoài hộp gỗ cực dày.

“Vạn Tái băng ngọc của Đại Tuyết sơn Tây Vực?” Y sinh ra lớn lên ở danh môn thế gia tên tuổi bậc nhất khắp thiên hạ, dĩ nhiên là người biết nhìn hàng.

Mộ Thanh Yến mỉm cười nói: “Tuy thứ này không có sức mạnh thâm sâu bằng Tử Ngọc Kim Quỳ, nhưng lại có công hiệu làm dịu đi nội kình nóng đốt, còn có phần hơn. Mong Tống huynh không chê mà nhận lấy.”

Hắn lại nói, “Loạn Nhiếp Đề vẫn còn đang thanh lọc, Tử Ngọc Kim Quỳ có lẽ rơi vào chỗ khác cũng chưa biết chừng. Tuy nói Tử Ngọc Kim Quỳ là bảo vật, song thật ra trong mắt cao thủ nhất đẳng chẳng qua cũng chỉ là phế vật. Nếu không phải cần trị tổn thương do U Minh hàn khí, ta cũng không nghĩ ra công dụng nào khác. Nếu mai này tìm được, ta lập tức đưa đến chỗ Tống huynh.”

Tống Úc Chi từ tốn khép lại hộp băng ngọc, gật đầu đồng ý, nhưng lòng thì thầm nghĩ, nếu lời ngươi là giả thì chả nhẽ ta còn lựa chọn khác chắc.

Y vốn không phải người đa nghi, nhưng vì từ lúc y dần trưởng thành bắt đầu hiểu chuyện, Nhiếp Hằng Thành và tâm phúc tử trung sớm đã tiêu tan thành mây khói, hai phái chính tà bước vào giai đoạn giằng co hòa bình nước sông không phạm nước giếng, do đó, cũng không thật sự chứng kiến hành vi của Ma giáo.

Cho đến khi bước vào dãy Hãn Hải, quả là khiến y mở rộng tầm mắt — tươi sống biến thường dân dưới sự quản chế che chở của Ma giáo thành Thi khôi nô; Thực Cốt Thiên Vũ dính vào tay chân là thối rữa; một lời không hợp bèn cho nổ thạch thất dưới lòng đất nát vụn, dù rằng trong đó có cả thân hữu phe mình; chưa kể là trước đó còn có chuyện bi thảm không phải dành cho con người của Vũ Nguyên Anh.

Sau đủ chuyện, cuối cùng y đã tin lời trưởng bối, Ma giáo quả là một đám ác đồ tàn nhẫn.

“Với thân phận của Tống huynh, ở lâu tại bổn giáo chỉ vô ích.” Mộ Thanh Yến đứng dậy, “Tống huynh ngủ thêm một giấc đi, đến bình minh ngày mai, ta phái người đưa Tống huynh ra ngoài.”

Tống Úc Chi chắp tay đưa tiễn, nghĩ thầm ta làm nào còn ngủ được.



Gió đêm chầm chậm thổi, Mộ Thanh Yến sải bước đi tới, tay áo tung bay, thẳng đến điện phía Đông nơi Hồ Phượng Ca dưỡng thương.

Để tránh Chủ Quân chờ đợi, Du Quan Nguyệt vốn dĩ định tìm một tỳ nữ đánh thức Hồ Phượng Ca, nào ngờ phòng Hồ Phượng Ca cũng đang sáng đèn, đồng thời cũng đang có khách ghé thăm, tình cảnh này mà để Thái Chiêu bắt gặp, ắt sẽ phỉ nhổ ‘Ma giáo các ngươi đều nửa đêm không ngủ được hay sao vậy hả’.

Vu Huệ Nhân đang ngồi bên giường, rù rì trò chuyện cùng Hồ Phượng Ca, vừa thấy Mộ Thanh Yến và Du Quan Nguyệt, văn sĩ trung niên hơn ba mươi hồi hộp như thiếu niên hôn môi người trong lòng bên hàng rào, đỏ mặt chạy trốn.

Mộ Thanh Yến nhìn theo bóng lưng Vu Huệ Nhân cười mỉm: “Lẽ nào bổn quân đã quấy rầy chuyện vui của Hồ Trưởng lão?”

Hồ Phượng Ca đang nhanh nhẹn đứng dậy hành lễ, nghe vậy cười cởi mở: “Thiếu Quân nói đùa rồi, Huệ Nhân từ nhỏ đã hay e thẹn, nhưng tâm địa không tệ, hay trộm đưa ta thức ăn và thuốc trị thương. Ầy, từ nhỏ đệ ấy bị Trần Thự và Nhiếp Đề khi dễ, hèn mọn cúi đầu đã quen.”

Mộ Thanh Yến nhìn Du Quan Nguyệt một chút, Du Quan Nguyệt hiểu ý, khom người rời đi.

Sau đó Mộ Thanh Yến ra hiệu Hồ Phượng Ca nằm dựa vào giường nói chuyện, Hồ Phượng Ca liền nói: “Từ nhỏ đã từ Thiên Cương Địa Sát doanh bò ra ngoài, chút tổn thương ấy có là gì. Nếu thể cốt không cứng cáp, đã chết trong sân nuôi cổ kia từ sớm rồi.”

Mộ Thanh Yến ngồi xuống, chắp tay nói: “Lần này có thể chuyển bại thành thắng, phải đa tạ Hồ Trưởng lão một kích quay giáo vào lúc quan trọng ấy.”

Hồ Phượng Ca không dám khinh thường, vội vàng quỳ chân sau: “Ti chức không dám cáng đáng.” Giáo quy của Ly Giáo rất nghiêm, đã nhận Mộ Thanh Yến làm chủ thì buộc phải ghi khắc phân chia tôn ti trên dưới.

Bà khẽ ngước lên: “Thiếu Quân, khi Nhiếp Hằng Thành chết Vu Huệ Nhân vẫn còn nhỏ, chưa tham dự qua bất kỳ chuyện nào của Nhiếp đảng; sau khi Nhiếp Hằng Thành chết, cậu ta còn vì nhiều lần khuyên nhủ mà chọc giận Nhiếp Đề, đã ẩn cư trong núi. Ngài xem có nên…”

Mộ Thanh Yến khoát tay ngăn lại: “Chỉ cần Vu Huệ Nhân không nghĩ đến phục hưng vinh quang Nhiếp thị gì gì đó, bổn quân sẽ không làm khó hắn.”

Hồ Phượng Ca thử thăm dò: “Còn Tiểu công tử Tư n kia…”

Thật ra bà cũng không có hảo cảm mấy với mẹ con Lý Như Tâm, lúc bản thân vùng vẫy giành giật sự sống ở Thiên Cương Địa Sát doanh, thường nhìn thấy vị đại tiểu thơ thiên kiều vạn sủng này cao ngạo đi qua, mí mắt còn không nhấc nhìn đám tử sĩ dưới đáy dính đầy bùn máu kia một chút. Chẳng qua là Vu Huệ Nhân niệm ân tình của Nhiếp Hằng Thành, nếu Mộ Thanh Yến vẫn khăng khăng muốn xử mẹ con Lý Như Tâm chết thì phiền toái rồi.

Mộ Thanh Yến như nhìn thấy tâm sự của bà, mỉm cười: “Nhiếp Hằng Thành có thể dung nạp gia phụ với ta, lẽ nào ta không dung chứa được một thằng bé con Nhiếp thị ư.”

Hồ Phượng Ca cực kỳ mừng rỡ: “Thiếu Quân anh minh!” Sau khi đứng dậy, bà bổ sung, “Thật ra tiểu công tử Tư n sinh không đủ ngày, cơ thể yếu ớt, chẳng những luyện không được công phu thượng thừa mà ta thấy cũng chẳng thọ lâu.”

Mộ Thanh Yến không quan trọng phất tay, “Tùy nó đi.”

Hồ Phượng Ca ngắm khuôn mặt hắn, suy nghĩ đến ngẩn người: “Thiếu Quân, ngài thật giống lệnh tôn, nhưng mà…”

“Nhưng khí phách thần thái rất khác, phải không.” Mộ Thanh Yến thản nhiên nói, “Ta không phải phụ thân.”

Hồ Phượng Ca thở dài, “Lúc chập tối thuộc hạ nghe nói Du Quan Nguyệt đã đưa Tôn phu nhân mẹ của Thiếu Quân lên núi. Thiếu Quân, thứ cho thuộc hạ đi quá giới hạn, Tôn phu nhân đúng thật đã không phải đủ điều, nhưng mà, nhưng mà…”

Bà là người lão luyện trong giết người phóng hỏa tra tấn bằng cực hình, song ngôn từ lại không trôi chảy, cuối cùng hết cách đành nói, “Giống loài có cánh, từ chim ưng không sợ mưa gió, cho đến chim sẻ cũng phải có mái nhà trú thân. Tôn Nhược Thủy, cô ta, cô ta cũng chỉ là một phụ nữ tầm thường không có năng lực tự vệ, xin Thiếu Quân gạt qua một bên, không để ý tới cô ta cũng được.”

Lời tuy uyển chuyển, nhưng ngoài sáng trong tối cũng là vì sợ Mộ Thanh Yến tổn thương Tôn Nhược Thủy, nên ẩn hiện ý cầu tình.

Mi dài Mộ Thanh Yến khẽ hất, khá tò mò, “Hồ Trưởng lão lên tiếng cho Tôn phu nhân?”

Người khác không nói, còn Hồ Phượng Ca là từ Thiên Cương Địa Sát doanh giết ra, hai tay đầy máu tanh, giết người như ngóe, dưới tay vong hồn vô tội không biết là bao nhiêu — giờ đây lại còn thương tiếc phân trần hộ Tôn Nhược Thủy.

Hồ Phượng Ca buồn bã thở dài: “Thiếu Quân không biết, thật ra ta và mẹ ngài đều là cùng bị đưa vào Ly Giáo.”

Mộ Thanh Yến phát hiện chỗ lạ thường trong lời bà, “Cùng? Hồ Trưởng lão và Tôn phu tử là người cùng một làng sao?”

Hồ Phượng Ca trả lời rất vi diệu: “Ta và Tôn Nhược Thủy là người cùng làng, nhưng không cùng làng với Tôn phu tử.”

“Tôn phu nhân không phải là con gái của Tôn phu tử?!” Mộ Thanh Yến hiểu ngay.

Hồ Phượng Ca cười khổ: “Thiên tai ập tới, cả làng đều gặp tai vạ, ở đâu lòi ra một cô gái yếu đuối đây. Là Nhiếp Hằng Thành muốn nắm giữ cha ngài, nhưng Tôn tiểu thư thật thì đã qua đời, đành phải tìm trong các cô gái nuôi dưới tay một người cực kỳ xinh đẹp dịu dàng. Dẫu sao thì cũng chưa ai từng gặp qua Tôn tiểu thư trưởng thành, chỉ cần cho Nhược Thuỷ bỏ công nhớ rõ cuộc đời và văn chương của Tôn phu tử là đủ.” Hơn nữa Mộ Chính Minh cũng không phải người rất đa nghi.

Cả người Mộ Thanh Yến như đóng băng, ánh mắt âm u lạnh lẽo. Một lát sau, hắn mới khôi phục lại vẻ vui cười hoà nhã, “Nói vậy, phụ thân đã bị lừa từ đầu đến chân rồi.”

Hồ Phượng Ca nhìn hắn thế này, trước mắt lại xuất hiện vị quý công tử ôn hoà khoan hậu chân chính kia, không khỏi thở dài, “Nhược Thuỷ cũng rất khó khăn, nếu cô ấy là Tôn tiểu thư thật sự, chỉ cần thổ lộ nỗi khổ tâm bằng mọi giá thì vì tình cảm với Tôn phu tử lệnh tôn cũng sẽ che chở cô ấy không bị Nhiếp Hằng Thành hãm hại — nhưng cô ấy vẫn luôn không làm thế. Cô ấy có thể làm sao đây, chỉ có thể nghe theo Nhiếp Hằng Thành.”

Có chuyện bà dằn xuống không nói tới, là trong quãng thời gian khó chịu đựng ấy, Nhiếp Đề đã mềm mỏng vuốt v e an ủi Tôn Nhược Thủy.

Mộ Thanh Yến cười rộ, “Nhiếp Hằng Thành không giữ kẻ vô dụng dưới tay, người có thể vào Thiên Cương Địa Sát doanh hoặc căn cốt tốt, hoặc tướng mạo tốt. Đường Thành Nam làm việc chỉ chú trọng giọng điệu, mỗi lần có mấy đứa trẻ mới vào doanh phân loại, để chính bọn chúng chọn làm tử sĩ hay làm gian. Hồ Trưởng lão chọn cái trước, Tôn phu nhân chọn cái sau nhỉ.”

Trước khi dùng người, hắn đã điều tra quá khứ Hồ Phượng Ca rất rõ ràng. Kết luận là, dù Hồ Phượng Ca không chịu làm việc cho mình thì bà cũng đáng giá là người được kính trọng. Phần kính trọng này, không phân biệt nam nữ.

Hồ Phượng Ca khẽ giật mình — năm đó lựa chọn đủ loại, cứ như kiếp trước, chính bản thân cũng đã nhanh chóng quên đi.

Vì để cho mình hoàn toàn hết hi vọng, thậm chí bà còn dùng mảnh sứ vỡ rạch nát mặt mình, là vì triệt để cắt đứt đường lui của mình. Từ đó về sau, tuyệt đối không thể dùng khuôn mặt lấy lợi, chỉ có thể dựa vào bản lĩnh luyện tập vất vả.

Bà bất giác sờ gương mặt đầy vết sẹo của mình, đầy xúc động. Bản thân đã từng là một cô gái trẻ xinh đẹp khả ái, chỉ có điều bà không muốn gửi an nguy vinh nhục của mình vào lòng thương hại ái mộ hay là động lòng vì sắc của người khác, bà muốn tự mình nắm chặt binh khí, dù sẽ có ngày chết không có chỗ chôn, cũng còn hơn dựa vào chiếu cố của người khác.

Lựa chọn hai mươi năm trước, bây giờ nom như đã phân cao thấp, bà vẫn là Thất Tinh Trưởng lão cao cao tại thượng, còn Tôn Nhược Thủy lại không tránh được tuổi già ở im lu mờ một góc.

Nhưng Hồ Phượng Ca biết, cho đến bây giờ dù rằng mình vẫn là lang bạt kỳ hồ liếm máu trên lưỡi đao còn Tôn Nhược Thủy lại sống cuộc sống an nhàn sung sướng phong hoa tuyết nguyệt, thì mình cũng sẽ không hối hận.

Nói đến đây, Hồ Phượng Ca biết mình không cần khuyên nữa, cùng lắm thì tương lai khi Tôn Nhược Thủy lùi về ở trong bóng tối thì đi thăm hỏi cô ta thêm chút, xem như vẹn toàn tình nghĩa chị em cùng thôn lúc bé.

Lúc này Du Quan Nguyệt vào đến, “Thiếu Quân, Nghiêm Trưởng lão đã tỉnh.”

Mộ Thanh Yến gật đầu, tạm biệt Hồ Phượng Ca xong, xoay người đi tới một gian phòng cuối cùng phía Đông điện.

Trong phòng tràn ngập hơi rượu thuốc nồng nặc, Nghiêm Hủ giống như một vị Địa Tạng Lão Bồ Tát méo mó ngồi xếp bằng trên giường, vừa thấy Mộ Thanh Yến vội cung kính hành lễ trên giường, “Nghiêm Hủ chào Thiếu Quân, đợi sau này mở đại điển lên ngôi vị thừa tự, lão hủ sẽ ghi chép Thiếu Quân thành Đại Giáo chủ thứ mười hai của bổn giáo.”

Lão đầu nhấc mặt cười một tiếng, “Lão hủ cũng là vì không chịu ghi chép Nhiếp Đề làm Giáo chủ, còn bảo phải mời phụ thân ngài rời núi nắm quyền thần giáo, nên mới chọc Nhiếp Đề thù hận, dựng cạm bẫy bắt lão hủ.”

“Ông tìm ta là muốn nói chuyện này à?” Mộ Thanh Yến chắp hai tay sau lưng đứng trước giường, “Năm đó lúc ông ghi chép Nhiếp Hằng Thành làm Đại Giáo chủ thứ mười một, cũng là một vị Giáo chủ khác họ duy nhất của bổn giáo, cũng hớn hở thế này ư?”

Nghiêm Hủ cất cao giọng: “Lão phu biết trong lòng Thiếu Quân đối với chuyện năm đó không thoải mái, nhưng lão phu vẫn phải nói, năm đó Nhiếp Hằng Thành kế vị Giáo chủ, là đương nhiên!”

“Lúc tằng tổ phụ của ngài vì vợ chết mà chán chường thất vọng nghĩ mình lại xót thân, Nhiếp Hằng Thành mười mấy tuổi đã có ý đổi mới chuyện trong giáo.”

“Lúc tổ phụ và người vợ như yêu tinh quậy phá kia muốn chết muốn sống, Nhiếp Hằng Thành vì lo lắng cho thần giáo hết lòng thức khuya dậy sớm.”

“Lúc cha con ngài chỉ lo tránh đi tìm chỗ thanh tịnh cho mình, Nhiếp Hằng Thành lại đứng ra phân cao thấp cùng sáu phái Bắc Thần!”

“Thiếu Quân cho thần giáo là thứ gì, là món đồ cất trong phòng ư, muốn bưng thì bưng, muốn quẳng thì quẳng?! Hay là mảnh ruộng một mẩu ba sau sân nhà họ Mộ các ngài, muốn trồng thì trồng, muốn bỏ hoang thì bỏ hoang? Ta nhổ vào! Lời hay khó khuyên quỷ muốn chết! Ba đời hậu nhân nhà ngài bị Nhiếp Hằng Thành quản chế, có thể trách ai, mình tác nghiệt mình nhận thôi!”

“Ta sinh ở thần giáo lớn lên ở thần giáo, lòng trung thành với thần giáo nhật nguyệt chứng giám! Nếu cha ông nhà ngài trước đây có người nào chịu nghe lời ta khuyên, thì sao ta lại tán thành Nhiếp Hằng Thành kế vị Giáo chủ!”

Thân hình cao cao đứng bên cửa sổ không nhúc nhích, như ngưng tụ thành một bức tượng bằng băng.

Nghiêm Hủ thấy tình hình Mộ Thanh Yến như vậy, thầm biết trọng chùy lần này đã gõ, lập tức mừng rỡ trong lòng. Ông quyết rèn sắt khi còn nóng, mặt ra vẻ đầy trang nghiêm, “Thiếu Quân à, nếu ngài đã nghe lọt được, thì nhanh nhanh mau chia lìa với cái cô bé cười hì hì ra mặt kia đi! Đại trượng phu sợ gì không vợ, chuyện hôn nhân của Thiếu Quân cứ để lão phu, bảo đảm thay Thiếu Quân tìm một vị…”

“Nàng ấy họ Thái.” Mộ Thanh Yến cuối cùng mở miệng, “Nàng là Thái Chiêu, cha là Cốc chủ Lạc Anh Cốc Thái Bình Xuân, mẹ Ninh thị phu nhân, cậu là Giác Tính thiền sư Trường Xuân tự. Nàng còn có một người cô quá cố, tên là Thái Bình Thù.”

Ly giáo vốn có một quy định, một khi đã là sứ giả kiêm nhiệm chấp bút thì không thể nhúng tay nhiều vào chuyện trong giáo, ân oán trong giáo cũng buộc phải cố không đếm xỉa đến, phải lòng yên tĩnh như nước để công bằng ghi chép sử giáo. Cho nên Thái Bình Xuân Ninh Tiểu Phong Giác Tính thiền sư gì đấy, Nghiêm Hủ còn có phần mù mù mờ mờ, nhưng ba chữ Thái Bình Thù trong Ly giáo thật sự như sấm bên tai!

Nghiêm Hủ từ trên giường bật cao ba thước: “Thái Bình Thù! Là Thái Bình Thù kia ư! Cậu cậu cậu, sao cậu có thể…” Người đến lúc giận tới cùng cực, đổi lại không biết nên mắng gì.

Bà cố của Mộ Thanh Yến chỉ là thân thể hơi yếu chút, bà nội của Mộ Thanh Yến chẳng qua là tính tình bướng bỉnh chút, mẹ Mộ Thanh Yến cũng chỉ là mật thám Nhiếp Hằng Thành phái đi thôi — tuy đều không phải là những phụ nữ đáng tin cậy song đến cùng vẫn là người cùng giáo.

Ai biết Mộ Thanh Yến vậy mà thanh xuất vu lam thắng vu lam cố gắng vượt lên một bước, xuất thẳng ra một tiểu yêu nữ của sáu phái Bắc Thần! Trời cao ơi đất rộng ơi, đây là thần tiên phương nào muốn diệt ta Ly giáo ta đây!

Nghiêm Hủ xụi lơ trên giường, đầu ong ong.

Mộ Thanh Yến còn ở bên cạnh tỉnh rụi sai người: “Chờ lát nữa ta muốn làm một chuyện, nếu Nghiêm Trưởng lão đã vô cùng tỉnh táo rồi thì chi bằng tới xem chút đi. Quan Nguyệt, sai người đi nhấc bộ liễn tới.”

Bình luận

Truyện đang đọc