GIANG HỒ DẠ VŨ THẬP NIÊN ĐĂNG

Tử Ngọc Kim Quỳ và tài liệu biến mất

“Giáo chủ, ngài lại xem này.”

Nghiêm Hủ đứng trong đại sảnh đen bóng to rộng, mở tung bốn quyển trục đặt song song, bày ra trên mặt đất.

“Đây là những quyển ghi chép lại những chuyện vụn vặt dòng dõi thê thiếp Giáo chủ các đời, bình thường rất ít ai xem.” Tiểu lão đầu thẹn thùng, “Ti chức lười biếng, cũng chưa từng xem qua.”

Mộ Thanh Yến nói: “Bổn tọa giống ông, chỉ đọc quyển tổng kết lịch sử Thần giáo, không rỗi đi rình chuyện nhà với chuyện phong hoa tuyết nguyệt Giáo chủ các đời.”

Nghiêm Hủ lau mồ hôi, “Kỳ quặc ngay ở chỗ này. Quyển tổng kết lịch sử Thần giáo đúng là chỉ ghi chép chuyện đoạt quyền mà các con trai con rể trải qua sau thời Giáo chủ Mộ Tung. Nhưng trong mấy quyển này lại nói Giáo chủ Mộ Tung còn có một vị trưởng tử mất sớm.”

Bốn quyển hồ sơ bằng lụa lăng hơi ố màu vàng thuỷ mặc như bốn dải trắng bắt mắt, trải ngang dọc trên mặt sàn bằng huyền thiết. Mộ Thanh Yến lẳng lặng đứng ở một bên, cúi đầu xem xét.

“Giáo chủ ngài xem này, ba quyển này, trải toàn bộ ra cõ độ dài xấp xỉ nhau.” Nghiêm Hủ chỉ vào ba dải lụa trắng đầu, “Chỉ có một quyển này, ngắn tròn hơn trượng.” Ông chỉ vào dải thứ tư.

“Quyển này là quyển ghi chép một đoạn quá khứ trước khi Giáo chủ Mộ Tung qua đời, có người xé đi một phần nội dung trong đó.” Khuôn mặt già nua của Nghiêm Hủ hưng phấn đỏ lên.

“Người này làm rất khéo.” Lão già nhẹ nâng đoạn giữa cuốn lụa lên, giơ cho Mộ Thanh Yến xem, “Hắn cố ý hơ lửa chỗ này và nối vào mảnh lụa mới, như cố tình không muốn để cho ai biết chuyện về con trưởng của Mộ Tung.”

“Càng không muốn để ai biết, Nhiếp Hằng Thành càng muốn biết.” Mộ Thanh Yến nói.

“Giáo chủ nói đúng lắm.”

Nghiêm Hủ thả cuốn lụa dài, bưng chồng sách dày trên đất đến, “Chấp Bút Sứ giả nhận lệnh ghi chép sử giáo vì để đảm bảo hồ sơ Thần giáo không có sai sót, thường sẽ chép từng chuyện vào một bản chép tay bên người trước, đợi khi rảnh rỗi mới nghiêm túc chép vào hồ sơ.”

Ông nói: “Vị Sứ giả ghi chép đoạn quá khứ này họ Khúc, tên Khúc Linh Lung.”

Mộ Thanh Yến hơi kinh ngạc: “Là nữ?”

“Đúng vậy, là một nữ Trưởng lão tu vi cao thâm.” Nghiêm Hủ nói, “Hiện nay con cháu Khúc Trưởng lão đã mờ nhạt dần khỏi những chức vị quan trọng của thần giáo, đang giữ một chân giữ kho ở một chân núi yên ắng. Toàn bộ bản chép tay của Khúc Trưởng lão bọn họ đều được lưu trữ trong một căn mật thất, lúc ta đến hỏi thăm, bọn họ nói hai mươi năm trước Nhiếp Hằng Thành cũng từng đòi họ bản chép tay này, đã cầm đi một bản trong đó.”

Nghiêm Hủ mở tầm mười quyển sách bình thường ra, chừa một chỗ ở giữa, “Mấy bản ghi chép này đều ghi lại chuyện trước mặt sau lưng của Giáo chủ Mộ Tung, quyển Nhiếp Hằng Thành lấy đi— chính là quyển liên quan tới người con trưởng!”

Mặt lão già đầy mê muội, “Rối cuộc trưởng tử của Giáo chủ Mộ Tung đã gặp chuyện gì, sao lại phải che đậy cuộc đời của ông ta chứ?”

Mộ Thanh Yến không trả lời, hỏi lại: “Đây là toàn bộ phát hiện của ông à?”

“Không không, không!” Nghiêm Hủ vội nói, “Ti chức còn một phát hiện lớn nữa!” Ông đẩy hết mớ sách trước mặt, “Chúng đều là giả!”

“Giả?” Mộ Thanh Yến rốt cuộc giật mình, “Là chuyện thế nào!”

Mắt già Nghiêm Hủ tỏa sáng: “Người làm giả nó thật sự rất tốn công sức, chẳng những có thể bắt chước nét bút lấy giả làm thật, mà nghị lực bền bỉ cũng là hiếm thấy trong cuộc đời ti chức! Vì để lấy niềm tin của Nhiếp Hằng Thành, đã chép hết mấy bản chép tay này giả cả một bộ!”

Mộ Thanh Yến nhíu mày: “Nếu hắn có thể bắt chước nét bút người khác, thì viết chỗ quan trọng thôi là được, cần gì phải chép chúng lại hết một lần chứ.”

“Giáo chủ có chỗ không biết.” Nghiêm Hủ nói, “Nét bút có thể bắt chước, nhưng giấy mực trăm năm trước đều là vật cũ. Mấy quyển này gần như viết cùng một thời, hẳn phải cũ như nhau, nếu chỉ làm giả mỗi một bản không phải dễ nhìn ra sơ hở sao. Dứt khoát dùng giấy cũ, dùng bút tích bắt chước chép lại tất cả một lần!”

“Thảo nào Nhiếp Hằng Thành không sinh nghi — từ một thiếu niên quê mùa chẳng biết mấy chữ, sau mấy năm ngắn ngủi đã có thể bắt chước bút tích người khác, bản lĩnh thật sự!” Mộ Thanh Yến tự lẩm bẩm.

“Sao Nghiêm Trưởng lão lại phát hiện sơ hở trong đó?” Hắn quay lại hỏi.

Nghiêm Hủ giấu niềm tự hào đầy bụng, mặt hồng hào như cây già gặp xuân: “Ti chức cẩn thận lật xem cuộc đời Khúc Trưởng lão, phát hiện khi bà còn sống khá thích thư pháp, dáng vẻ lại xinh đẹp, rất nhiều người ngưỡng mộ dưới váy.” Nhắc lại chuyện phong nguyệt nam nữ, lão lưu manh vạn năm không kìm được cười hắc hắc hắc ngây ngô.

Mộ Thanh Yến tức giận liếc xéo: “Nhặt điểm quan trọng mà nói!”

“Vâng vâng vâng.” Nghiêm Hủ cố gắng ngừng cười ngây ngô, “Người ngưỡng mộ có nhiều nữa cũng vô ích, Khúc Trưởng lão lạnh như băng, sắc mặt trơ trơ trước tất cả đám đàn ông…”

Mộ Thanh Yến nghĩ thầm, đã trơ mặt với tất cả bọn đàn ông, thì đứa con của bà ấy là ở đâu chui ra — hắn vốn không phải người hay tò mò, nhưng ở chung lâu ngày với cô bé nào đó, cũng nhiễm phải thói hư này.

Hắn khẽ mỉm cười, không hỏi gì.

Nghiêm Hủ nói: “Lúc ấy trong giáo có một vị Đàn chủ, ái mộ Khúc Trưởng lão như si như cuồng, song thần nữ vô tình, ông ta thừa lúc Khúc Trưởng lão ra ngoài, chui vào phòng bà, rập lại hầu hết bản chép tay của bà!”

Mộ Thanh Yến bật cười: “Trên đời còn kỹ thuật đó sao? Bổn tọa tưởng chỉ có chữ khắc trên bia mới rập được chứ.”

“Có, đương nhiên là có.” Nghiêm Hủ nói, “Có một loại nước thuốc hiếm có, bôi lên mặt giấy da dê, dùng lực ép lên trang giấy nguyên gốc. Khi mở ra, tấm da dê sẽ có thể in lại toàn bộ nét mực chữ nguyên văn một lần.”

“Thế chả lẽ văn tự ban đầu không phai đi một lớp mực sao?” Mộ Thanh Yến hỏi.

“Đúng thế, nên Khúc Trưởng lão vừa về đến đã phát hiện, giận không kìm được muốn bắt người hỏi tội!” Nghiêm Hủ lại cười ngây ngô, “Ai ngờ chưa kịp lộ ra thì vị Đàn chủ kia đã chết ở bên ngoài, chuyện cứ thế không giải quyết được gì, ha ha, ha ha.”

Đôi ngươi màu mực của Mộ Thanh Yến lóe lên, “Nghiêm Trưởng lão tìm được những bản giấy da dê ấy à?”

“Tìm được!” Nghiêm Hủ hứng thú bừng bừng lôi ra một xấp giấy mỏng ố vàng trong rương ra, “Vị Đàn chủ ấy có một bộ hạ trung thành, thương tiếc Đàn chủ nhà mình chẳng qua là Tương Vương có ý, bèn dối Khúc Trưởng lão rằng không tìm được mấy tấm da dê ấy, thật ra là để vào quan tài của Đàn chủ, xem như chôn cùng.”

(*) Tương Vương hữu ý thần nữ vô tâm, trích Thần Nữ phú, tương tư đơn phương.

Mộ Thanh Yến nhắm lại mắt dài: “Thế là ông cho đào mộ phần người ta?”

“Tận trung với Giáo chủ nào có thể gọi là trộm mộ chứ?” Nghiêm Hủ cây ngay không sợ chết đứng, lập tức cười lấy lòng, “Sau đó ta đã cho chôn cất Đàn chủ kia lại rồi, không thiếu một khúc xương.”

Mộ Thanh Yến nhìn mớ giấy dày chằm chằm, do dự nói: “Chuyện Đàn chủ kia rập lại bản chép tay của Khúc Trưởng lão ấy, sao Nhiếp Hằng Thành lại không biết?”

“Bởi vốn dĩ chuyện này không cho người ngoài biết!” Nghiêm Hủ lớn tiếng, “Cũng đâu phải chuyện gì hay ho, huống hồ người cũng đã chết, Khúc Trưởng lão vốn không để lộ ra.”

“Vậy sao ông lại biết?”

“Giáo chủ đoán xem người bộ hạ trung thành với Đàn chủ kia họ gì?” Nghiêm Hủ che miệng cười trộm.

Mộ Thanh Yến nhắm mắt: “Không phải là họ Nghiêm chứ.”

“Giáo chủ thần cơ diệu toán, người bộ hạ trung thành kia chính là tổ phụ của ti chức!” Nghiêm Hủ nhăn nhở khuôn mặt già cười thành một đóa cúc, “Từ nhỏ ti chức đã nghe tổ phụ nhắc lại chuyện xưa, bảo con cháu lấy đó mà làm gương — hèn chi tên của Đàn chủ kia thật quen thuộc, thật là trời xanh có mắt mà!”

“Lần này đúng là ông trời giúp đỡ rồi.” Mộ Thanh Yến cười khẽ.

“Mời Giáo chủ tìm đọc!” Lão già vẻ đầy trung thành hai tay dâng tấm da dê, “Xấp này đều có ghi lại mọi quá khứ liên quan tới trưởng tử của Mộ Tung. Ti chức đọc không hiểu mấy, hình như là người con trưởng đó đã luyện một môn công phu kỳ quái, làm Mộ Tung giận dữ, suýt nữa cha con bất hoà.”

“Dù ti chức không biết người làm giả đã viết cho Nhiếp Hằng Thành cái gì, nhưng trên bản rập này nhất định là thật!”

*

Sắc trời vừa sáng, Thái Chiêu đã tự tỉnh giấc.

Đệm chăn phơi no nắng, tản ra mùi lười biếng dễ ngửi, mềm như mây; đưa tay lần mò trong gối, sờ đến một chiếc hộp hình bí đỏ quen thuộc. Không cần mở ra, Thái Chiêu đã biết bên trong có gì, là quả khô chua ngọt khiến người nhìn tới là ứa nước bọt, là thịt khô mềm dày ngọt, là bánh đậu tây mềm nhũn vào đến miệng là tan chảy…

“Ê, tiếng chít chít chóp chép này là tiếng gì nhỉ, lẽ nào là chuột con đang ăn trộm đồ. Mau đi xách bẫy chuột đến, xem ta có kẹp được ngón chân nó không nào!”

“Đừng đừng… Là con đang ăn vặt, cô cô đừng kẹp ngón chân con!”

Thái Chiêu vùi đầu vào gối, giọng người phụ nữ dịu dàng như trêu chọc phảng phất như vẫn quanh quẩn bên tai.

Mở mắt ra, một phòng im ắng.

Lúc nhỏ, bé Thái Chiêu ngủ không đủ giấc, còn không phải là do cô cô cứ luồn bàn tay mang hơi lạnh vào chăn, túm lấy tai cô, như nuôi một con mèo con lười mũm mĩm, giục cô đi luyện công. Lúc đó, ổ chăn thơm thơm mềm mềm là chỗ cô hài lòng thoải mái nhất. Giờ đây, tựa như có phần không giống nữa.

Hơn một năm nay, cô ngủ ở rất nhiều nơi.

Chăn đệm Tông môn sạch sẽ ngăn nắp lại lạnh như băng, nhìn là biết không phơi đủ nắng, mà là trực tiếp dùng gió núi có thể thổi bay người thổi khô; khung giường khách đi3m nhỏ chốn thôn quê vừa khẽ đụng vào là lung lay kẽo kẹt, chăn mền hoặc toả ra mùi ẩm ướt, hoặc hun sấy khô bằng củi than; chiếc giường lớn hoa lệ khảm nguyên tấm xà cừ Bắc Hải trong cung Cực Lạc, từ đầu giường đến cuối giường nạm vàng khảm ngọc khắp chốn, cũng không ngại cấn người muốn thốn — khẩu vị của người trong ma giáo quả rất chênh lệch.

Cũng không biết phải chăng do mình cao lớn hơn, mà cảm giác giường trong nhà đã hơi chật chội, còn không bằng nằm tự tại trên tảng đá xanh to cứng lạnh lẽo trong sơn động đối mặt vào tường hối lỗi kia.

Thái Chiêu khoác áo, ngồi vào bàn rót cho mình chén nước lạnh, chiếc lò xông hương hình con cóc bằng sứ trắng hơi cũ lạnh dần, vẫn còn phun mùi cam ngọt êm ái trong trẻo. Bánh hương là do Ninh Tiểu Phong dùng vỏ quýt long não trầm hương và lê giòn chưng chế thành, trước lúc Thái Bình Thù qua đời chịu đủ tra tấn của cơn đau, chỉ có huân hương loại này mới giúp bà yên bình chìm vào giấc ngủ.

Uống một hơi cạn sạch nước, Thái Chiêu vô thức lật tàn hương trong bình sứ nhỏ xem đi xem lại, suy ngẫm đầy cõi lòng —

Ba ngày trước cô cùng Tống Úc Chi Phàn Hưng Gia đã đến Lạc Anh Cốc.

Nhìn thấy song thân mạnh khỏe không việc gì, Thái Chiêu rất hân hoan, lại biết thật ra Tống Thời Tuấn đã tỉnh dậy hai lần, song thương thế quá nặng, lại mê man tiếp.

Thấy Tống Úc Chi bi ai cực kỳ, Thái Chiêu không kìm được an ủi: “Tam sư huynh đừng quá khó khăn, Tam Thúc tổ nhà anh cũng là nhân vật bậc nhất trên giang hồ, huống chi ông ấy còn hơn lệnh tôn mấy chục năm công lực. Hai người dốc toàn lực đáp trả, tất nhiên sẽ bị tổn thương. Tam thúc tổ nhà anh giờ cũng đã qua thất*, còn lệnh tôn gì thì gì cũng có thể cứu về.”

(*) tuần ma chay sau khi chết.

Nói bừa lý không bừa, Tống Úc Chi cuối cùng tỉnh lại, ngày ngày toàn tâm toàn ý hầu cha chải đầu lau người, giúp Phàn Hưng Gia ra ra vào vào chuẩn bị thuốc châm cứu.

Đợi trời tối người yên, Thái Chiêu và vợ chồng Thái Ninh vào trong mật thất, đem tất cả những gì trải qua một năm nay từ đầu chí cuối nói cho song thân.

Từ lúc Thái Bình Xuân bỗng mất tích trong trấn Thanh Khuyết, phát hiện Thiên Tuyết Thâm cô nhi Thiên Diện Môn, chạy đi vùng cực bắc Đại Tuyết sơn tìm tiên dịch Tuyết Lân Long Thú, kết quả trên đường gặp được bọn Chu Trí Khâm Đoạn Cửu Tu và đám Tuyết Nữ — đây là lần đầu tiên cô và Mộ Thanh Yến biết những chuyện râu ria liên quan tới Tử Vi Tâm Kinh, cũng là lần đầu biết đến chuyện Thái Bình Thù và Mộ Chính Dương.

Ninh Tiểu Phong đầy sợ hãi: “Chu Trí Khâm đã chết ở Đại Tuyết Sơn rồi ư! Các chị Trí Nhàn đều cho là anh ta còn ở bên ngoài tìm hài cốt con trai nữa chứ!”

“Thì ra cái chết của Trần Thự hai mươi năm trước còn có cơ mật bực này!” Thái Bình Xuân cũng biến sắc, “Chu Trí Khâm này, hừ, từ đầu ta đã nhìn ra trên mặt hắn chỉ là gió thoảng mây trôi nhưng thực ra rất không phục Chu Trí Trăn đại ca! Không ngờ vì tu luyện tà công, hắn lại cấu kết cùng yêu nhân Ma giáo!”

Thái Chiêu trầm tư một lát: “Con gái đã nhận lời Tuyết Nữ và Thiên Tuyết Thâm, vĩnh viễn không đề cập chuyện của bọn họ, nên mới một mực không nói.”

“… Con làm đúng đó.” Ninh Tiểu Phong thở dài, “Ôi, hai đứa chúng nó cũng là kẻ đang thương giữa trần thế, cứ để chúng yên lặng ẩn cư ở vùng tuyết vực thế ngoại đi. Năm đó không phải chị Bình Thù cũng không nhắc đến một chữ sao, ta cũng không biết chị ấy từng đi đỉnh núi tuyết.”

Sau đó Thái Chiêu bắt đầu kể lại chuyến đi dãy Hãn Hải cùng Tống Úc Chi, giúp Mộ Thanh Yến san bằng nội loạn Ma giáo — Nhiếp Đề, Hàn Nhất Túc, Vu Huệ Nhân, Lý Như Tâm, Thực Cốt Thiên Vũ, mê cảnh địa cung hùng vĩ, giai thoại của Mộ Đông Liệt và La Thi Vân…

Quan trọng nhất là, trước khi Nhiếp Đề và Tôn Nhược Thuỷ bị diệt khẩu đã để lộ ra chuyện, có kẻ thần bí sau màn bao năm qua vẫn luôn cấu kết với Ma Giáo, cái chết của Mộ Chính Minh và huyết án Thường gia ổ Bảo đều là mưu đồ âm thầm của kẻ sau màn kia.

Nghe xong đoạn này, phản ứng Ninh Tiểu Phong rất bình thường, đầu tiên là thở thật dài, nói: “Hầy, thật không ngờ yêu nghiệt Ma giáo cũng có trải qua những chuyện không dễ dàng, ân oán kéo dài mấy đời người này…”

Sau đó trừng mắt hạnh thật to, “Chiêu Chiêu mi họ Thái chứ không phải họ La, không được phép nghe vài ba giai thoại xưa là suy nghĩ lung tung! Theo yêu nghiệt Ma giáo thì có kết cục gì tốt chứ, có nhà nhưng không về được, có người thân không thể gặp, chỉ có thể tránh đi chân trời góc biển, như cô hồn dã quỷ vậy, mi nhớ lấy cho mẹ!”

Thái Chiêu cũng không luôn miệng thưa vâng như thường lệ để dỗ mẹ, im lặng một lát sau nhẹ nhàng nói: “Thúc Tổ phụ Thái Trường Phong có để lại một bản ghi chép bảo rằng, chân trời góc bể cũng có phần rực rỡ khác.”

Ninh Tiểu Phong suýt thì giận lòi mắt, vừa ngoái đầu: “Anh Tiểu Xuân xem con bé chết tiệt này này…” thì mới phát hiện phản ứng chồng mình rất không bình thường.

Thái Bình Xuân cau mày bàng hoàng hồi lâu, nghe vậy mới ngẩng đầu: “Nhiếp Đề có con trai à, không phải gã ta không thể có con sao?”

Hai mẹ con đều giật mình, tuy là nguyên cớ giật mình khác nhau, nhưng cả hai đều vội hỏi làm thế nào Thái Bình Xuân biết được.

“Năm đó không phải Triệu Thiên Phách sai người đoạt bảo kiếm gia truyền của Mâu Kiến đại ca sao, còn đánh các chú bác nhà họ Mâu đến gần chết. Mâu đại ca giận không nhịn nổi, bèn kéo A tỷ đi bắt Nhiếp Đề lấy nó để uy hiếp Nhiếp Hằng Thành.” Thái Bình Xuân nói.

Ninh Tiểu Phong nghi hoặc: “Sao em không biết?”

“Bởi đó là điều kiện của Triệu Thiên Phách.” Thái Bình Xuân nói, “Hắn phái người báo cho chị ấy, hy vọng hai bên ngầm giao dịch, một tay giao người, một tay giao kích. Đến chừng ấy hắn có thể nói là mình vô ý, bảo kích nhà họ Mâu bị các anh chị ấy đoạt lại. Nếu chuyện bị hé lộ, với tính tình tàn nhẫn của Nhiếp Hằng Thành thì thà không cần đứa cháu không ra hồn kia cũng không chịu cúi đầu nhịn nhục.”

“Họ Triệu phúc hậu thật đó, tình nguyện để mình bị sư phụ trách phạt.” Thái Chiêu nói.

Thái Bình Xuân nói: “Đệ tử lão ma đầu ấy đều rất hiếu thuận, tuy Triệu Thiên Phách chướng mắt Nhiếp Đề, nhưng nghĩ tới cảnh cả đời Nhiếp Hằng Thành không vợ không con mới không đành lòng nhìn dòng máu họ Nhiếp bị tổn hại.”

“Sau đó thì sao, việc đó thì có liên quan gì đến chuyện Nhiếp Đề có thể có con hay không?” Ninh Tiểu Phong hỏi tiếp.

“Lúc chị với Mâu đại ca ra ngoài tìm Triệu Thiên Phách thương lượng, ta nhận lệnh trông coi Nhiếp Đề.” Thái Bình Xuân nói, “Lúc ấy Nhiếp Đề bị chút vết thương nhẹ, ta mới cho Lão Hoàng hỗ trợ băng bó chữa trị. Ai ngờ sau đó Lão Hoàng lén bảo ta, ‘Lúc nhỏ tên nhóc họ Nhiếp này từng mắc bệnh quai bị, để lại hậu quả, e là không thể có hậu’.”

Ninh Tiểu Phong lấy làm kỳ quặc: “Không phải Lão Hoàng chỉ bán rượu sao? A, thì ra mọi người nhốt Nhiếp Đề trong hầm rượu của Lão Hoàng.”

“Lão Hoàng cũng không phải sinh ra chỉ bán rượu, tổ tiên nhà ông ấy hành nghề y, nhất là mẹ Lão Hoàng, chuyên trị mấy bệnh vặt trẻ con.” Thái Bình Xuân nói, “Với cái tính của Lão Hoàng, chuyện không nắm chắc sẽ không dễ dàng mở miệng.”

Ninh Tiểu Phong hơi mù mờ, “Vậy đứa con Nhiếp Đề kia ở đâu ra nhỉ?”

Thái Bình Xuân dấp ngón tay vào nước trà nguệch ngoạc mấy nét, chợt cười nói: “E là do Vu Huệ Nhân và Lý Như Tâm tư thông sinh ra, hai người xem…”

— trên mặt bàn viết ba chữ ‘Vu Huệ Nhân’ 于惠因 một hàng ngang, phía dưới lại viết ngang ba chữ ‘Lý Như Tâm’ 李如心, Thái Bình Xuân hợp hai chữ ‘Vu’ và ‘Tâm’ trên dưới lại, vừa lúc là chữ ‘ n’ 恩, n của Nhiếp Tư n.

Thái Chiêu tâm phục khẩu phục: “Cha, người đúng là liệu sự như thần, đúng là thế ạ.”

Lúc nghỉ ngơi trong căn lều nhỏ khu rừng rậm, cô đã từng hỏi kết cục của đám Lữ Phùng Xuân, Mộ Thanh Yến hờ hững nói — Nhiếp Đề đúng là không thể có con, Nhiếp Tư n chính xác là con của Lý Như Tâm với Vu Huệ Nhân.

Cô lại nghĩ, thảo nào bác Chu luôn bảo cha là ông cụ non, miệng vụng tâm tuệ. Rất nhiều chuyện trong lòng Thái Bình Xuân đều rõ mồn một, chẳng qua là nhìn quá thấu nên không nói ra miệng.

“Cha.” Thái Chiêu chợt khẽ động, “Chuyện Nhiếp Đề này còn có ai biết không ạ?”

“Cuộc giao dịch tổng cộng chưa đến ba ngày đã chấm dứt, người biết chuyện chỉ có bốn người chúng ta.” Thái Bình Xuân nói, “Chị ấy không thích nhất là lột trần điểm yểu người ta. Ta không kể với ai, không lâu sau Lão Hoàng vì vết thương cũ tái phát đã chết, nhưng còn Mâu đại ca…”

Ông hơi chần chừ, “Chuyện ngầm xấu xa ba đường dưới như này*, ắt Mâu đại ca cũng chẳng rêu rao khắp chốn, nhưng có lẽ có thể nhắc tới đôi câu với người thân cận.”

Thái Chiêu ngừng thở: “Bác Mâu thân với ai nhất ạ?”

Một ý niệm mơ hồ nảy ra trong đầu cô, trước đó Mộ Thanh Yến nói người sau màn từng lấy chuyện Lữ Phùng Xuân lén thu gom binh giới lương thảo bên ngoài để uy hiếp, buộc lão phản loạn, như vậy gã ấy đã lấy chuyện gì áp chế Vu Huệ Nhân đây?

Theo Thái Chiêu thấy, với một người như Vu Huệ Nhân không có dã tâm bừng bừng nói làm liền làm, tất nhiên là đã cầm đằng chuôi khiến hắn ta thân bại danh liệt vạn kiếp bất phục thì hắn mới có thể lấy dũng khí đâm Hồ Phượng Ca một đao.

Mộ Thanh Yến cũng vô tình phát hiện ra bí mật này trong cuộc điều tra hạ bệ đám phản tặc toàn diện. Mười mấy năm nay Lý Như Tâm Vu Huệ Nhân rất ít khi gặp nhau, người bình thường cũng không vô duyên vô cớ suy nghĩ theo hướng đó.

“Không nhiều, nhưng cũng không ít. Có điều…” Thái Bình Xuân như đoán được suy nghĩ trong lòng con gái, “Sư phụ con và cậu em nhỏ chết yểu của Mâu đại ca sinh cùng tháng, do đó Mâu đại ca chiếu cố nhất là sư phụ của con.”

Trong lòng Thái Chiêu đầy lo sợ ngờ vực, sắc mặt trắng bệch. Cô thấy vẻ mặt cha như thường, không kìm được nói: “Cha không hề lo lắng rằng kẻ sau màn làm nhiều chuyện ác ấy có thể là người vô cùng gần gũi với chúng ta sao ạ?”

Thái Bình Xuân thản nhiên nói: “Lạc Anh Cốc yên yên ổn ổn đã hai trăm năm, là dựa vào chỉ lo cho chính mình, ít tham gia tranh chấp trên giang hồ. Nếu không có sự lạnh lùng thờ ơ của đời đời các thế hệ, cũng không sống tới bây giờ.”

Thái Chiêu đầy mờ mịt, Ninh Tiểu Phong vỗ vỗ bàn tay con gái, ra hiệu cô kể tiếp.

Sau khi Mộ Thanh Yến đoạt giáo quyền, Thái Chiêu về Thanh Khuyết Tông sống nề nếp một quãng thời gian rất dài, mãi đến hôm đi Thường gia ổ Bảo tế điện, yên ổn lại một lần nữa bị phá vỡ. Cô và Mộ Thanh Yến phát hiện ra mộ huyệt dưới lòng đất của Lộ Thành Nam, từ vật chôn cùng đã đoán ra chỗ quy ẩn của anh em nhà họ Thạch, trải qua một trận bị tập kích đánh giết đêm mưa, cuối cùng bị dòng họ Thạch thị đã ẩn cư lượm đi.

Thạch Thiết Sơn chuyển đạt lại lời trăn trối của Lộ Thành Nam cho hai người, và nguyên nhân khiến Nhiếp Hằng Thành lúc tuổi già điên cuồng giết chóc ngang ngược — đây là lần thứ hai bọn họ biết đến bí mật liên quan đến Tử Vi Tâm Kinh.

Sau đó trong lời tự thuật của Quách Tử Quy về chuyện quá khứ, Mộ Thanh Yến đoán được Vương Nguyên Kính đã thấy chết không cứu Vũ Nguyên Anh, từ đó suy ra Vương Nguyên Kính đã bị uy hiếp bởi kẻ sau màn, đã thiết kế thăm dò ra vị trí của Thường thị ổ Bảo.

Thế là hai người quyết định đêm đó thăm dò Thái Sơ Quán, ép hỏi Vương Nguyên Kính. Ai ngờ thất bại trong gang tấc, Vương Nguyên Kính vừa định thổ lộ thân phận kẻ sau màn đã bị đâm bỏ mình.

Chuyện về sau, tất cả đã biết.

Nhắc đến Quách Tử Quy, Ninh Tiểu Phong không khỏi đau lòng một hồi.

Thái Bình Xuân nhìn con gái chằm chằm, chợt hỏi một chuyện không liên quan, “Thì ra là Mộ Thanh Yến đã rủ con cùng đi điều tra huyết án nhà họ Thường từ trước — chuyện Chu Ngọc kỳ không chút báo trước khóc lóc đòi giải trừ hôn ước, Mộ Thanh Yến có động tay chân không đó?”

Thái Chiêu cực xấu hổ: ” y da cha, nói chuyện chính đi, ngài đừng nói nhăng nói cuội mà!”

Ninh Tiểu Phong nín khóc mỉm cười, “Hai cha con các người, thực sự là… Này!”

Bà lại nói, “Vừa rồi hai người đã nghi ngờ có thể Thích Vân Kha từ chỗ Mâu đại ca biết được chuyện Nhiếp Đề vô sinh, nhưng cái lần Doãn Đại triệu tập mọi người đánh vào U Minh Hoàng Đạo, Thích Vân Kha đâu có đi, vậy thì sẽ không nhìn thấy Vương Nguyên Kính lạc vào ngục Bát Trảo để uy hiếp hắn ta. Hơn nữa, đêm Vương Nguyên Kính bị giết, Thích Vân Kha vẫn luôn dông dài thảo luận chuyện hôn sự của Chiêu Chiêu với chúng ta, còn nói quá trời thứ tốt cho Tống Úc Chi, chưa từng rời đi một bước, còn có…”

Bà hơi lưỡng lự, “Mẹ vừa sực nhớ ra. Mẹ của Mâu đại ca, bà ấy, bà ấy họ Chu, thuộc nhánh phụ của Bội Quỳnh Sơn trang. Xét tỉ mỉ thì, Mâu đại ca và Chu Trí Trăn cũng là anh em họ, có thể nào…?”

Ninh Tiểu Phong muốn nói lại thôi, hai cha con bên cạnh đều hiểu ý bà — Chu Trí Trăn cũng có khả năng biết chuyện Nhiếp Đề vô sinh, huống hồ đêm Vương Nguyên Kính bị giết, ông nghỉ ngơi một mình trong phòng, không có bằng chứng.

“Ôi, sao lại dây vào người bác Chu chứ.” Thái Chiêu lẩm bẩm, “Ban đầu con còn nghi ngờ trưởng bối nhà Tam sư huynh kia. Cho dù là Tông chủởng môn cha anh ấy hay là Tam thúc tổ nhà đó, đều có tu vi cao thế lực lớn, nom cũng rất dáng vẻ có dã tâm. Giờ thì hay rồi, một chết một bị thương, khẳng định không phải là bọn họ…”

Con đường phía trước sương mù dày đặc, Thái Chiêu đành kể tiếp.

Lần này, cô kể hết chuyện bản chép tay riêng tư bí mật của Doãn Đại, từ đó suy tính ra bí mật cuối cùng của Tử Vi Tâm Kinh — tức là ba nan đề để vượt ải ba thành, vợ chồng Thái thị vợ chồng thế mới biết được nguyên nhân đến cùng con mình nhất định phải tìm đến Đầm Máu.

Nghe Doãn Đại ngồi nhìn Thái Bình Thù một mình lên đ ỉnh Đồ Sơn tru sát Nhiếp Hằng Thành, Ninh Tiểu Phong giận đỏ ngầu hai mắt, đập tay lên bàn: “Doãn Đại lão nhi lừa đời lấy tiếng, cậy thế lộng quyền, ép chị Bình Thù của ta chỉ có thể dùng mệnh đối mệnh với Nhiếp lão tặc, khiến cho nửa đời tàn tật! Bảo với Thích Vân Kha, hết hy vọng đi, chỉ dựa vào việc trên người Tống Úc Chi có một nửa dòng máu họ Doãn cũng đừng nghĩ làm con rể ta!”

“Được rồi được rồi, tội lỗi không đổ lên cha mẹ vợ con.” Thái Bình Xuân trấn an vợ ngồi xuống, “Nếu không nhờ Úc Chi nó vô tư lôi bản ghi chép của Doãn Đại ra thì chúng ta cũng không biết những việc này.”

Ông quay lại, “Chiêu Chiêu, giờ con tính thế nào. Tìm Tử Ngọc Kim Quỳ ư?”

Thái Chiêu gật đầu, lấy từ trong túi đeo hông một tờ giấy phác thảo phỏng lại Tử Ngọc Kim Quỳ đưa ra, “Trước nay con vẫn luôn không dám tìm nó, cứ cảm thấy một món đồ cô cô đã cố ý giấu đi thì cứ để nó lẩn trong thế gian vậy. Giờ Dạ Lan trong Đầm Máu đã thiêu hủy cả, cho dù có Tử Ngọc Kim Quỳ cũng không luyện được Tử Vi Tâm Kinh. Để loại người như Tống Tú Chi đoạt chức chưởng môn Quảng Thiên Môn tuyệt đối không phải phúc của người đời. Nên là giúp Tam sư huynh khôi phục công lực, nhanh chóng cướp lại chức chưởng môn mới phải.”

Ninh Tiểu Phong lật bản vẽ nhìn tới nhìn lui, “Đây là Tử Ngọc Kim Quỳ? Sao giống một cục đá đen sì thế.”

Thái Chiêu vội giải thích: “Nghe nói ban đầu ở lớp ngoài vốn có một lớp cánh hoa quỳ bằng vàng lấp lánh, là người Ma giáo không giữ cẩn thận, sau một trận lửa lớn, vàng bị nung chảy hết mới trở thành như thế.”

Thái Bình Xuân cũng nhìn bản vẽ mấy lần, cuối cùng đánh nhịp: “Được, mấy hôm nay chúng ta lục tung trên trấn trong cốc một lần, xem có thể tìm ra Tử Ngọc Kim Quỳ này không.”

*

Nước nguội trong ấm trà đã uống xong, tàn hương trong lò sứ trắng nhỏ cũng bị đốt không còn tia lửa, Phù Dung ở bên ngoài cười hì hì gõ cửa, “Tiểu tiểu thư nên rời giường rồi, mặt trời đã chiếu cái rắm nắng…”

“Tiểu tiểu thư đã lớn, cô đừng nói mấy lời khó nghe thế nữa.” Phỉ Thúy hờ hững cắt lời, sau đó đập cửa phòng rầm rầm động trời, “Hôm qua là cô bảo bọn tơi đến kêu cửa, nếu không rời giường tôi giội nước lạnh á!”

Thái Chiêu ngửa mặt lên trời thở dài, xụ mặt mở cửa: “Chờ mọi chuyện kết thúc, ta nhất định phải dẫn hai chị làm quen với một chị tên là Tinh nhi cô nương Ma giáo — xem người ta xem, đó mới là dáng vẻ làm tỳ nữ, hiền lành nhỏ nhẹ, dịu dàng quan tâm. Nào giống hai chị, hung thần ác sát, kiêu căng phách lối. Có đi chăn heo, heo cũng bị hai chị tức chết á!”

Hai tỳ nữ từ trong lòng đến ngoài mặt đều không chút gợn sóng, cùng vỗ tay bốp bốp bốp.

“Tiểu tiểu thư nói rất hay, đa tạ tiểu tiểu thư khích lệ. Đợi lấy chồng rồi tôi sẽ mổ heo, mai này lễ tết sẽ dâng hai cục dồi béo cho tiểu tiểu thư nếm thử.”

“Giáo chủ Ma Giáo cũng đâu có thấy một con heo thì mắt sáng xanh rờn đâu, chứng tỏ tôi với Phù Dung nuôi cô tốt hơn heo nhiều. Chỉ là hại hai bà già bọn tôi cứ phải bôn ba lẩn tránh — lần này vừa thấy tình hình không đúng, bèn lập tức trong đêm trốn về Lạc Anh Cốc.”

“… Rồi rồi, đi chải đầu mặc đồ thôi.” Từ nhỏ đến lớn, Thái Chiêu không nói thắng nổi hai bà cô này.

*

Hôm nay sắc trời u ám, mưa phùn lất phất, Thái Chiêu cầm cây dù giấy đi lang thang trong trấn chẳng có mục đích, bước vào một tiệm mì hoành thánh quen thuộc, ngồi xuống gọi chén hoành thánh.

Cầm thìa ăn hai muỗng, cô nhíu mày: “Bà chủ, nước dùng mì lần này không đúng rồi, có phải canh xương đổi nước rồi không! Cháu còn chưa tính toán thịt trong nhân bánh là thịt chân giò trước hay thịt chân sau, nhưng phần hành xắt này, cháu nói bao nhiêu lần rồi, nhất định phải là mới xắt, chứ đừng xắt qua cho để vào, bà xem nó chẳng còn đẹp…”

Bà chủ quẳng mạnh cái thìa lớn, chửi ầm: “Tiểu Chiêu này từ lúc chưa dứt sữa đã biết húp mì ở cửa tiệm nhà ta rồi, lần nào cũng là ‘Ngon ngon ngon, mì hoành thánh ở đây số một thiên hạ’! Bây giờ lớn rồi, lại chê bai chúng ta! Đại lang bán bánh hấp với Nhị nương bán bánh bao tổ đã đến khóc kể với ta rồi, nói hôm trước cô chê bánh hấp không đủ mềm, hôm qua ghét vị nhân bánh bao không thuần.”

“Mọi người thử phân xử cho ta nhé, cô bé này ăn từ nhỏ cho đến lớn giờ lại chê ỏng chê eo, có phải là kiểu ‘Chỉ thấy người mới cười không nghe người cũ khóc’ trong kịch hát không! Ta biết mà, Tiểu Chiêu đây ra ngoài rồi, thấy qua chuyện đời, không nhìn nổi thị trấn nhỏ thâm sơn cùng cốc chúng ta vào mắt nữa, ui chu choa, cuộc sống này khốn khó quá mà…”

Giọng bà chủ vang to, đủ có thể vang vọng cả con đường nhỏ, Thái Chiêu đành chạy trối chết.

Chịu mắng một chập, bụng trống rỗng, cô lại lần nữa chẳng có mục đích lang thang trong mưa phùn.

Đường đá xanh bóng phẳng phiu, mỗi căn nhà cửa tiệm, mỗi một chỗ rẽ, nhắm mắt lại cô đều có thể mò đến, nơi này là quê hương vừa quen thuộc vừa xa lạ của cô, thoảng như tất thảy đều như xưa, lại thoảng như tất thảy không còn giống thế nữa.

Hay là, thay đổi thật ra là chính mình?

*

Trong căn nhà lớn sâu trong núi, Du Quan Nguyệt Thượng Quan Hạo Nam núp một góc xa xa ngoài cửa xì xầm bàn tán.

“Giáo chủ đã xem hồ sơ ba ngày rồi, còn chưa xong? Không phải Nghiêm Trưởng lão bảo chỉ có một chồng sao.”

“Đúng là Nghiêm Trưởng lão chỉ trình lên một chồng, nhưng sau Giáo chủ lại bảo chúng ta cầm hồ sơ khác đến so, không biết định xem tới lúc nào.”

“Ôi chao, trời mưa rồi.”

“Chỉ là mưa phùn, lất phất đầy ý thơ nhỉ.”

“Ý thơ cái gì mà ý thơ, Tinh nhi ghét nhất tiết trời này, phơi gì cũng không xong.”

“Mau nhìn đi mau nhìn đi, Giáo chủ mở cửa sổ! Giáo chủ đang đứng đực ra đấy nhìn cái gì kìa, nhìn mưa sao? Chả lẽ Giáo chủ thích trời mưa?”

“Không đâu.”

“Sao cậu biết là không! Cậu là con giun trong bụng Giáo chủ à?”

“Không cần biết Giáo chủ có thích hay không, nhưng Chiêu Chiêu cô nương không thích, vì trời mưa sẽ làm phiền nàng ta dạo phố. Cho nên Giáo chủ cũng sẽ không thích.”

“… Đúng nhỉ, cậu nói có lý.”

Thái Chiêu rầu rĩ không vui quay về thung lũng, bắt gặp Phàn Hưng Gia đang báo cáo tình trạng căn bệnh của Tống Thời Tuấn cho vợ chồng Thái Bình Xuân, lải nhải dông dài nói hết mọi dược liệu cần thiết xong, cuối cùng hắn nhẹ giọng tỏ ý: Qua chẩn trị toàn diện của hắn, Tông chủởng môn cứu thì có thể cứu, nhưng kinh mạch đan nguyên tổn thương quá độ, chỉ e tuổi thọ có giảm.

Sau khi Phàn Hưng Gia rời đi, Ninh Tiểu Phong lẩm bẩm một mình: “Câu này sao ta nghe quen tai thế chứ.”

“Lúc đại phu chẩn bệnh cho chị cũng nói vậy.” Thái Bình Xuân nhanh nhẹn tiếp lời.

Nhớ đến Thái Bình Thù, Ninh Tiểu Phong lập tức đau xót, bà bước tới trước giường Tống Thời Tuấn đang còn hôn mê, râu ria lởm chởm, tiều tụy vàng như nến, thở dài: “Cái ông này cả đời xuôi gió xuôi nước, phách lối ta đây, không ngờ về già lại gặp phải chuyện bực này. Hầy, đều là người thân cốt nhục, tên Tống Tú Chi cũng quá hung ác, bình thường im ắng, vừa trỗi dậy đã ra chiêu chết người!”

Thái Bình Xuân không bình luận, ngược lại hỏi con gái: “Con có phát hiện manh mối gì của Tử Ngọc Kim Quỳ à?”

Thái Chiêu xoè ra ba ngón tay: “Ba ngày nay con muốn lật hết từng căn nhà trong thị trấn rồi, chẳng có gì cả ạ.”

Ninh Tiểu Phong nói: “Ba ngày nay cha mi cũng lật tới lật lui hết cả Cốc, cũng chẳng có cái gì, hay là Tử Ngọc Kim Quỳ đã bị cô mi đưa ra khỏi Lạc Anh Cốc từ trước nhỉ?”

“Mẹ thấy Tử Ngọc Kim Quỳ là thứ gì tốt sao? Thứ dễ gây tai hoạ như thế, chỉ cần chính cô cô còn sống, chắc chắn sẽ không đẩy tai họa sang người khác. Con thấy hẳn là trước khi lâm chung bà đã giấu kín nó đi, hoặc là, giao phó cho người khác? Ôi, thế mà con lăn ra bệnh nặng ba ngày, chẳng biết gì cả.”

“Không chỉ con cho là thế, mà có lẽ kẻ giật dây cũng cho rằng chị ấy đã giao gửi Tử Ngọc Kim Quỳ ra ngoài.” Thái Bình Xuân rót chén trà nóng cho vợ, “Trong ba ngày qua ta cẩn thận ngẫm lại hơn một năm qua, rốt cuộc nghĩ thông một số chuyện.”

Ông ngẩng lên, “Lúc trước tới tham dự lễ tang của A tỷ có những ai, môn phái nào.”

Ninh Tiểu Phong giơ ngón tay: “Chúng ta không muốn lộ ra, do đó không có rất nhiều người đến — năm phái Bắc Thần đều tới, Thường đại ca, chúng cao tăng Trường Xuân Tự, còn có Thanh Trúc Bang, còn mẹ em vậy mà lại thất điên bát đảo tới thắp một nén nhang.”

Thái Bình Xuân nói: “Kẻ sau màn hiểu A tỷ rất rõ, biết chị ấy vì không muốn liên luỵ chúng ta, nhất định sẽ không tiếp tục giữ Tử Ngọc Kim Quỳ lại Lạc Anh Cốc khi mình đã qua đời, mà là giao phó cho một người đủ tin tưởng lại không ai đoán ra được. Mà người này, năm đó có mặt trong số những người dự lễ tang của chị ấy.”

Thái Chiêu thầm chấn động: “Sẽ là ai đây?”

“Ta hỏi hai mẹ con này, nếu hai người là A tỷ, sẽ giao phó Tử Ngọc Kim Quỳ cho ai?” Thái Bình Xuân hỏi vợ con mình.

“Em á.” Ninh Tiểu Phong ngây ra, “Ừm, em sẽ giao cho…” Bà đảo mắt một vòng, “Chỗ nguy hiểm nhất chính là chỗ an toàn nhất, em sẽ trộm vùi vào mộ tổ lão già Dương Hạc Ảnh chết tiệt kia, dù là ai cũng không nghĩ ra!”

Thái Chiêu bật cười, “Ha ha ha ha, mẹ à người buồn cười quá!”

“Buồn cười gì, ta nói không đúng chỗ nào!”

“Sở dĩ cô cô không nỡ hủy đi Tử Ngọc Kim Quỳ, chính là sợ mai này nhỡ có người muốn dùng. Nếu vùi vào một tổ nhà họ Dương, một cục đá đen sì hồ hồ lẫn vào trong đám đất đá, có quỷ cũng không tìm ra, khác gì huỷ đi chứ!”

“Vậy mi nói xem nào!” Ninh Tiểu Phong cả giận nói.

Thái Chiêu suy nghĩ: “Bình thường mà nói, giao cho sư phụ hoặc bác Chu là tốt nhất, bọn họ có tu vi cao, trong tay lại có thế lực, bảo vệ được Tử Ngọc Kim Quỳ.”

Thái Bình Xuân: “Nếu cô con sinh lòng nghi ngờ họ thì sao?”

Thái Chiêu giật mình.

Thái Bình Xuân gằn từng chữ: “Vị Mộ Giáo chủ kia có câu nói không sai, kẻ giật dây phí mọi trắc trở giết cả nhà họ Thường, hẳn là vì Thường đại ca đã phát hiện chuyện gì — dù Thường đại ca không có chứng cứ, nhưng nếu như anh ấy đem lo nghĩ của mình kể cho cô con thì sao?”

Ninh Tiểu Phong cả kinh: “Không thể giao Thích Vân Kha, không thể giao Chu Trí Trăn, Tống Thời Tuấn, Cầu Nguyên Phong, Dương Hạc Ảnh, cọng rơm nào cọng rơm nấy đều không đáng tin cậy như nhau, thì chính là…” Bà gần như bật thốt.

“Cho nên Thường đại ca đã chết.” Thái Bình Xuân nhẹ nhàng ngắt lời vợ, “Vào đêm cả nhà họ Thường bị giết sạch, tất nhiên là bọn chúng lục soát cả Thường gia ổ bảo không có kết quả.”

“Vậy còn có thể là ai nhỉ?” Ninh Tiểu Phong rối ren đầy đầu, chợt mắt sáng rực, “Đúng rồi, Pháp Không đại sư!”

“Cho nên sau buổi tế điển Bắc Thần Lão Tổ, Nhiếp Đề vô duyên vô cớ phái người chặn giết chúng ta trên đường về.” Thái Bình Xuân nói, “Trong đó, chỉ có Trường Xuân Tự là bị tập kích ngay trước cửa nhà, cửa chùa bị đánh vào, nhiều chỗ trong chùa bị đốt.”

Con ngươi Thái Chiêu siết chặt: “Cho nên mấy cuộc chặn giết kia đều là chiêu che mắt, chỉ có Trường Xuân Tự mới là mục tiêu của bọn chúng?”

“Đúng, Chiêu Chiêu thật thông minh.” Thái Bình Xuân nói, “Nếu ta đoán không lầm, kẻ sau màn đã thừa cơ lục soát cả Trường Xuân Tự, vẫn không thu hoạch được gì.”

“Lặp đi lặp lại nhiều lần không thành, cuối cùng hắn đành phải thiết kế để Tam sư huynh trúng U Minh Hàn khí, để chúng ta tìm Tử Ngọc Kim Quỳ thay hắn.” Thái Chiêu kinh hãi không thôi, “Cha à người thật thông minh.”

“… Nói nãy giờ.” Ninh Tiểu Phong chìa bàn tay, “Xin hỏi hai người thông minh đây, rốt cuộc cục đá đen ấy đang ở đâu.”

Hai cha con đều im lặng.

Qua hồi lâu, Thái Chiêu thở dài: “Để con tìm xung quanh lần nữa vậy.”

Nhìn bóng con gái nhỏ nhắn bước ra cửa, Thái Bình Xuân chợt nói: “Nếu Mộ Thanh Yến từ đầu đến cuối chưa phạm tội ác gì lớn, hiện Chiêu Chiêu quả thích nó thật, thì tuỳ chúng thôi… bỏ trốn cũng không phải không được.”

Ninh Tiểu Phong suýt bị nước trà sặc chết: “Ông nói cái gì! Chiêu Chiêu bảo bối của tôi, sau này thành hôn phải là đại yến mười dặm hồng trang mời khách á! Còn lén lút bỏ trốn, ông váng đầu à!”

Thái Bình Xuân thở dài: “Mình không thấy quái lạ sao? Hơn một năm trước Tống Úc Chi đã trúng phải U Minh Hàn khí, thế sao cho tới bây giờ Chiêu Chiêu mới về Lạc Anh cốc tìm kiếm.”

Bờ môi Ninh Tiểu Phong giật giật.

Thái Bình Xuân nói tiếp: “Con bé biết A tỷ giấu đi Tử Ngọc Kim Quỳ chắc chắn có thâm ý, dù Tống Úc Chi có sốt ruột hầu như không cách nào khỏi hẳn, Chiêu Chiêu cũng không thật sự giúp nó tìm Tử Ngọc Kim Quỳ. Mãi cho đến toàn bộ Dạ Lan ở Huyết Chiểu, không còn nỗi lo về sau, Chiêu Chiêu mới thật động tâm tư tìm bảo.”

Ông cười, “Về điểm này Chiêu Chiêu lại giống người Lạc Anh Cốc, lạnh nhạt lộ từ trong xương.”

“Mình cũng thế, hai cha con các người chỉ quan tâm người trong nhà.” Ninh Tiểu Phong nhỏ giọng, “Ôi, chỉ có chị Bình Thù, cả trái tim đều nóng hổi.”

“Tim nóng cũng chỉ sớm chết thôi, tim Thường đại ca không nóng đó sao. Haizz, tim lạnh mới có thể sống lâu.” Thái Bình Xuân vỗ về vai vợ, “Nhưng Chiêu Chiêu đối xử với Mộ Thanh Yến lại không giống.”

“Mộ Thanh Yến và con bé cùng lên đ ỉnh núi Tuyết, lấy được tiên dịch Tuyết Lân Long thú. Chúng lại cùng đi Đầu Máu, Mộ Thanh Yến cũng có thể thừa dịp Chiêu Chiêu không chuẩn bị, trộm giấu mấy cành Dạ Lan đi. Nếu có Tử Ngọc Kim Quỳ là đủ để tu luyện tà công — nhưng mà đối với hắn, Chiêu Chiêu chưa từng sinh lòng nghi ngờ một chốc.”

“Có một số việc, không phải chúng ta không thèm nghĩ, là có thể xem như không có.”

Ninh Tiểu Phong lại buồn lo trăm mối, “… Sao lại dây dắt đến họ Mộ nữa thế.”

*

Thái Chiêu lặn lội trong thung lũng ẩm ướt hồi lâu, cuối cùng âm thầm vào chỗ ở Thái Bình Thù.

Lúc bà còn sống, mỗi dịp xuân về hoa khoe sắc thắm hoặc cuối thu lá rụng, đều đưa bé Thái Chiêu từ trên trấn về ở trong Cốc.

Thái Chiêu cởi chiếc áo khoác ẩm ướt ra, cuộn một vòng lăn lên giường Thái Bình Thù.

Dù cố nhân đã qua đời gần năm năm, Ninh Tiểu Phong vẫn giữ gìn căn phòng này rất tốt, đệm chăn mềm mại khô ráo, bàn ghế sạch sẽ sáng loáng, ngay cả son phấn trong hộp cũng đều tươi mới, như đang chờ Thái Bình Thù du ngoạn giang hồ xong sẽ quay về.

Sợ là cả đời này mẹ cũng không quen được rằng cô cô đã qua đời —

Thái Chiêu mơ mơ màng màng nghĩ, mệt mỏi nửa tháng cùng lúc ập tới, từng cảnh tượng trước đây thoáng qua trong đầu như đèn kéo quân, cuối cùng khựng lại ở câu nói kia của Lý Văn Huấn.

“Ta e là nửa đường hoang dã, tin tức bồ câu đưa thư bị lộ…”

Sao cô cứ mãi để ý tới câu này chứ? Câu này có chỗ nào không đúng chứ.

“Nửa đường hoang dã, tin tức bồ câu đưa thư bị lộ…”

Bồ câu đưa thư có thể thả giữa đường, chỉ cần nghiêm chỉnh huấn luyện, là có thể tìm được phương hướng chính xác và địa điểm.

Nhưng cho dù là Trường Xuân Tự am hiểu giỏi huấn luyện bồ câu đưa tin, cũng rất khó chính xác để bồ câu đưa thư dừng trong tay người đang đi đường, trừ phi là loài chim giỏi săn mồi trên biển giỏi tìm kiếm trên chuyến đi.

“E là nửa đường, bồ câu đưa tin… tin…”

Thái Chiêu sực tỉnh bật dậy, mồ hôi lạnh trên trán chảy ròng ròng, lòng như nổi trống ầm ầm.

Cô vội khoác thêm áo ngoài, đội mưa chạy về chỗ lồng bô câu, làm vợ chồng Thái Thị đang đứng dưới cửa xem múa ở đối diện giật mình, vội bung dù đuổi theo con gái.

Thái Chiêu xông thẳng vào lồng bồ câu, loay hoay tìm kiếm.

“Chiêu Chiêu con sao thế?” Ninh Tiểu Phong hơi thở không ổn định đuổi tới cửa, “Y phục cũng không mặc cho đường hoàng, một đứa con gái lớn rồi sao có thể…”

“Mình khoan vội nói.” Thái Bình Xuân trấn an vợ, ngẩng lên hỏi con, “Chiêu Chiêu, con nói đi.”

“Cha, mẹ.” Thái Chiêu xoay lại, khắp người dính đầy lông bồ câu trắng trắng xám xám, “Có thể con đã biết Tử Ngọc Kim Quỳ ở đâu.”

*

Trong thính đường lờ mờ đen bóng, ánh đèn như đậu.

Mộ Thanh Yến đẩy đống hồ sơ xộc xệch trước mặt ra, đứng dậy xoay người, dùng sức đẩy phiến cửa gỗ tấm thật dày, một cơn gió núi xen lẫn mưa phùn cuồng dã ập vào căn phòng to lớn, thổi tung hồ sơ trên bàn bay tứ tán, bay múa đầy trời.

Chàng trai trẻ xinh đẹp cao ráo đứng trước cửa sổ, mặc cho mưa gió rét lạnh quét cả người: “Thì ra là thế, ha ha ha, thì ra là thế…”

Lúc này bỗng có tiếng Du Quan Nguyệt vội vã vang lên ngoài phòng — “Giáo chủ, thuộc hạ có cấp báo!”

“Vào nói.”

Du Quan Nguyệt cẩn thận đẩy cửa phòng, đứng cạnh cửa khom người bẩm báo: “Mười mấy người dịch dung cải trang từ Lạc Anh Cốc ra ngoài, lên thuyền đi đường thủy, chia theo nhiều hướng khác nhau mà đi.”

“Chiêu Chiêu đi đường nào?”

“Hướng tây bắc… hình như là hướng về U Minh Hoàng Đạo của chúng ta.”

“Không phải U Minh Hoàng Đạo.” Mộ Thanh Yến quay lại, sắc mặt lạnh lẽo: “Là Huyền Không Am.”

Bình luận

Truyện đang đọc