CẨN NGÔN

*Chương này có nội dung ảnh, nếu bạn không thấy nội dung chương, vui lòng bật chế độ hiện hình ảnh của trình duyệt để đọc.

Đông Siberia, trong một căn cứ bí mật của tổ chức phản động, dù trên người đang quấn đầy băng gạc nhưng Kirov vẫn diễn thuyết vô cùng hào hứng.

Hắn đứng thẳng người, cố gắng để lộ phần ngực bị thương, dùng sức quơ cánh tay hết lần này đến lần khác: “Nga hoàng Nicola vĩ đại, người Cha đáng kính của tất cả chúng ta, Người đã nói rằng: chỉ cần đến Siberia, chúng ta sẽ có được lãnh địa của riêng mình, có được một cuộc sống tươi đẹp. Người đã nói với chúng ta, nơi đây không có sưu cao thuế nặng, không phải làm việc quần quật cả ngày mà vẫn chẳng đủ cơm ăn. Nhưng thực tế thì sao? Chúng ta đã bị lừa, hoàn toàn bị lừa rồi!”

Ngữ điệu của Kirov càng lúc càng cao. Ba mươi mấy người đứng trong phòng đều xiết chặt nắm tay, lộ ra vẻ mặt vô cùng phẫn nộ.

“Chúng ta đến Siberia theo lệnh của Nga hoàng. Chúng ta phải làm việc cả ngày lẫn đêm, nhưng chúng ta lại phải nộp hơn nửa số lương thực kiếm được lên trên. Chúng ta vốn tưởng làm như vậy là có thể giữ được đất đai vườn tược của mình. Đó là hy vọng sống sót của chúng ta và cả gia đình! Thế nhưng,” Kirov đột nhiên nhấn mạnh: “Nhưng! Chúng ta nhận được cái gì? Là sự xua đuổi, là những màn cướp bóc, là những vụ tàn sát!”

“Đúng vậy, đúng vậy!” Có người bắt đầu lớn tiếng phụ họa theo: “Chính xác là như vậy!”

“Quân đội của chúng ta, quân đội dưới tay Nga hoàng vĩ đại của chúng ta, đã đuổi chúng ta khỏi chính mảnh đất của mình! Cướp đoạt lương thực và tài sản của chúng ta, thậm chí giết người thân của chúng ta!” Giọng của Kirov ngày một nặng nề và đau thương, hoàn toàn không mang theo khí thế trào dâng như lúc nãy: “Hỡi các anh chị em, chẳng lẽ chúng ta còn phải tiếp tục chịu đựng sao? Còn phải ngoan ngoãn làm dê non chờ người làm thịt sao? Còn phải để mặc đám quý tộc khốn nạn và đồng bọn của chúng muốn làm gì thì làm hay sao?”

“Không thể!” Mọi người đồng loạt giơ cánh tay lên, hô lớn: “Không thể! Tuyệt đối không thể!”

“Chúng ta phải phản kháng!”

“Chúng ta phải đoạt lại tất cả những gì thuộc về chúng ta!”

“Giết chết đám người đáng khinh kia đi!”

Kirov lập tức giơ hai tay, ra hiệu cho mọi người im lặng. Sau đó, hắn ngoắc tay với Mễ Nhĩ Hạ đang ngồi ở một bên, nói: “Mễ Nhĩ Hạ, cô gái lương thiện của tôi, kể hết những gì cô đã gặp phải ra đi, để mọi người thấy rõ bộ mặt khốn nạn của đám chó săn dưới trướng Nga hoàng!”

Mễ Nhĩ Hạ đứng lên, nhẹ nhàng đi đến vị trí mà Kirov vừa nhường cho. Cô cởi áo bông trên người, để lộ bộ quần áo rách nát mặc khi được Thường Đại Niên cứu lúc trước. Còn chưa mở miệng, đôi mắt cô đã đỏ hoe. Cô hé miệng, giọng nói không khỏi mang theo những tiếng nghẹn ngào: “Đám chó săn vô sỉ của Nga hoàng xông vào nhà tôi, cướp đi tất cả những gì có thể ăn, giết chết cha tôi, mẹ tôi, còn cả anh trai và em gái của tôi. Bọn chúng thực sự là ma quỷ…”

Theo lời kể của Mễ Nhĩ Hạ, vành mắt mọi người cũng bắt đầu đỏ lên. Thậm chí đã có mấy người phụ nữ chảy nước mắt. Bọn họ cùng gặp phải tình cảnh giống như Mễ Nhĩ Hạ, điều khác biệt duy nhất chính là, Mễ Nhĩ Hạ vẫn còn là một đứa bé mới mười lăm tuổi…

Mễ Nhĩ Hạ kể xong chuyện của mình, những người khác lần lượt được mời lên. Thông qua việc bảo bọn họ kể lại những gì mình đã gặp phải, Kirov đã khiến cho ba mươi mấy người có mặt ở đây vô cùng xúc động. Hắn đã khiến bọn họ tin rằng, chỉ có chống lại Nga hoàng, bọn họ mới có thể có được những ngày tháng yên ổn.

“Chúng ta phải chiến đấu! Phải chiến đấu!” Kirov xiết chặt nắm tay, ra sức mà múa may vung vẩy, hoàn toàn không để ý đến việc vết thương toác miệng khiến máu thấm đỏ lớp băng. Mà có lẽ là hắn cố ý. Hắn muốn những người này nghĩ hắn là một anh hùng, một anh hùng bị thương trong quá trình chiến đấu!

Ba mươi mấy người ở trong phòng đồng thanh hô theo, âm lượng không hề nhỏ. Đúng lúc Mạnh Nhị Hổ đi tới cửa nghe thấy, không khỏi nhướng mày, gãi gãi đầu: “Đám Tây này lại phát điên rồi.”

Sau đó, hắn quay đầu nói với người đàn ông đứng bên cạnh mình: “Hay là lát nữa chúng ta hãy tới.”

Nhưng người nọ lại lắc đầu, cười với Mạnh Nhị Hổ: “Không sao cả, chúng ta gõ cửa đi thôi.”

Nếu ở đây có ai đó thường xuyên ra vào quán trà Đỉnh Thuận ở thành Quan Bắc, khẳng định sẽ cảm thấy người đàn ông này vô cùng quen mắt. Chỉ cần tháo bộ râu rậm, đổi lại bộ quần áo, hắn sẽ lập tức biến thành một trong những người phụ việc ở quán trà Đỉnh Thuận!

Lý Cẩn Ngôn vô cùng coi trọng việc xâm nhập tổ chức phản kháng và giám sát Kirov. Vì thế cho nên, sau khi bàn bạc với chú Câm, hắn đã điều vài thuộc hạ thông minh nhanh nhẹn của đối phương đi làm nhiệm vụ. Thậm chí, hắn còn mời Thẩm Hòa Đoan – người am hiểu giao tiếp và biết rõ về Kirov nhất thành Quan Bắc tới “giảng bài” cho bọn họ.

Bây giờ Thẩm Hòa Đoan đã khác mấy tháng trước rất nhiều.

Lão tiên sinh Thẩm Trạch Bình cố ý bảo Lý Cẩn Ngôn thu xếp cho Thẩm Hòa Đoan đến khu công nghiệp dạy học trong vòng nửa tháng. Sau khi tiếp xúc với đám nhóc ở đó, hắn bắt đầu trở nên điềm tĩnh, cẩn trọng hơn, không còn liên tục nhắc đến Quốc tế thứ hai, giai cấp công nhân nông dân với chủ nghĩa XX này kia như lúc trước.

“Khi nhìn thấy tất cả những gì diễn ra trước mắt, tôi mới phát hiện trước đây mình nông cạn biết nhường nào.” Thẩm Hòa Đoan viết trong nhật kí: “Tôi hệt như ếch ngồi đáy giếng, không chịu đối mặt với hiện thực, cứ khăng khăng cho rằng suy nghĩ của mình là đúng, không đi chứng minh mà cũng chẳng thèm suy xét. Thậm chí, tôi còn không biết những người mà tôi muốn giúp cần gì. Sau khi chia sẻ tâm sự với cô giáo Dương cùng dạy trong trường tiểu học, tôi lại càng cảm thấy xấu hổ hơn.”

Cô giáo Dương được nhắc tới trong nhật ký của Thẩm Hòa Đoan chính là nữ sinh từng đến trạm thu dụng giúp đỡ vào mấy tháng trước, sau khi tốt nghiệp liền tới trường học trong khu công nghiệp làm giáo viên: Dương Sính Đình. Cô đã bước một bước chân ra khỏi tháp ngà (1) của mình, chính mắt nhìn thấy mặt chân thực nhất của thế giới này.

(1) Tháp ngà: ý nói tư tưởng sống thoát ly hiện thực, tương tự như đã tháo cặp kính màu hồng.

“Đống đạo lý đao to búa lớn mà hoàn toàn vô căn cứ được thốt ra từ miệng tôi thật buồn cười,” Phần cuối cùng trong đoạn nhật ký đó, Thẩm Hòa Đoan viết: “Cô giáo Dương nói với tôi rằng, trong mắt những đứa nhỏ ở đây, tất cả những thứ tôi coi là chân lý còn không bằng được một miếng bánh mỳ. Tôi không tin, tôi phản bác lại. Nhưng sự thật đã chứng minh, cô ấy đúng. Tôi từng không hiểu vì sao ông nội lại bảo tôi không nên làm việc cho Chính phủ, nhưng giờ thì tôi đã rõ. Trước kia, tôi chỉ sống trong lý tưởng của mình. Hiện tại, nếu muốn cống hiến sức lực cho nhân dân, cho nước nhà một cách chân chính, vậy thì phải học được cách hành động đúng đắn thực sự.”

Viết xong một chữ cuối cùng, Thẩm Hòa Đoan liền buông bút. Trước mắt hắn như hiện ra hình ảnh của Dương Sính Đình. Cô độc lập, cô tự tin, nụ cười trên mặt cô vô cùng chân thành và ấm áp… Chẳng biết vợ sắp cưới của hắn – tiểu thư nhà họ Lý có giống như vậy hay không? Có phải người ta cũng là một thiếu nữ xinh đẹp, hiểu biết và sở hữu một nụ cười chan chứa nắng xuân không?

Nghĩ đến đây, Thẩm Hòa Đoan không khỏi nở nụ cười. Nhìn đồng hồ một chút, hắn vội vàng khép nhật kí lại rồi cầm sách vở đặt sẵn trên bàn và đứng lên. Bỗng hắn nhớ ra, thời gian hắn giảng dạy ở trường tiểu học đã kết thúc, mà chuyện Lý tam thiếu gia nhờ hắn cũng đã hoàn thành.

Chỉ là, đến bây giờ hắn vẫn không hiểu, vì sao Lý Cẩn Ngôn lại bảo hắn âm thầm giảng giải cho người khác về chuyện Quốc tế thứ hai, còn dặn dò hắn nhất định phải giữ bí mật?

Có lẽ Thẩm Hòa Đoan chẳng bao giờ ngờ được, những người ngồi trong lớp học của hắn khi ấy sẽ khơi dậy sóng gió trên mảnh đất Siberia. Một ngày nào đó, sẽ có người vô tình tiết lộ cho hắn vài chi tiết. Lúc đó, sau khi giật mình kinh ngạc, hắn sẽ kiêu ngạo tự hào về những việc mà mình đã từng làm. Tuy nhiên, đó là chuyện còn rất xa.

“Nhớ đấy, bây giờ tên của tôi là Kazan.” Kazan nói khẽ với Mạnh Nhị Hổ: “Ngàn vạn lần đừng nhầm lẫn, tôi là một mục dân lai, mang trong mình hai dòng máu Tatars và Mông Cổ, súc vật trong nhà đều bị bọn Cossack (2) cướp đi, tôi căm thù Nga hoàng thấu xương thấu tủy.”

(2) Cossack: Người Cozak hay người Kazak, người Kozak, người Cô-dắc là một cộng đồng truyền thống của những người sống trên khu vực thảo nguyên phía nam của Đông Âu và phần châu Á của nước Nga.

“Biết rồi.” Mạnh Nhị Hổ gật gật đầu. Nhớ tới ông già câm xuất hiện ở Zabaykalsk cùng Kazan ban nãy, hắn không nhịn được mà cảm thấy lạnh cả sống lưng. Đời này, Mạnh Nhị Hổ chưa bao giờ sợ hãi đến thế. Lúc trước, khi Lâu Thiếu soái kề dao vào cổ hắn, hắn cũng chẳng hề chớp mắt dù là một cái. Ấy vậy mà thời điểm đứng trước mặt ông già câm kia, tóc gáy hắn bỗng dựng hết cả lên. Không riêng gì hắn, đám người hai tay dính máu như Thường Đại Niên, Hứa nhị tỷ, Hai Đao… cũng đều phải giật mình khi thấy ông già này. Đương nhiên, cái người tên Kazan do ông ta mang tới, cũng không hề đơn giản.

“Biết là được rồi.” Kazan tiến lên phía trước một bước, dùng sức đẩy mở cửa phòng.

Đợi khi cánh cửa đóng lại, Mạnh Nhị Hổ mới xì một tiếng, lấy bầu rượu cất trong ngực áo ra, quơ quơ mấy cái với vài gã canh phòng đứng ở cách đó không xa. Muốn tạo quan hệ với đám Tây lông, rượu là thứ không thể thiếu.

Quả nhiên, mấy gã canh phòng kia nhìn thấy bầu rượu trong tay Mạnh Nhị Hổ, miệng lập tức ngoác ra đến mang tai. Cái tên Tatars này đúng là rất hào phóng, lần nào đến cũng mang theo không ít thứ tốt. Rượu của hắn ngon hơn so với loại Vodka kém chất lượng bọn gã thường uống gấp trăm lần. Chỉ quý tộc mới có khả năng uống Vodka cao cấp. Nghe nói chén rượu của Nga hoàng còn được làm bằng đá quý nữa kìa…

Một gã canh phòng tên là Tuhachev đi đến trước mặt Mạnh Nhị Hổ, thoải mái nhận lấy bầu rượu trong tay hắn. Vừa mở nắp, gã liền ngửa đầu uống một ngụm to, xong mới vặn chặt lại rồi ném cho những người khác. Đương nhiên, gã cũng không quên giơ ngón cái với Mạnh Nhị Hổ: “Anh bạn, đúng là rượu ngon!”

Mạnh Nhị Hổ lại lấy một hộp thịt ra khỏi ngực áo, hai mắt Tuhachev lập tức phát sáng.

“Tôi đổi bằng một bộ da gấu đấy!” Mạnh Nhị Hổ nhét hộp thịt vào ngực Tuhachev, bảo gã cất kỹ: “Đồ tốt sẽ chia sẻ.”

Tuhachev lập tức giấu hộp thịt đi. Gã dùng ánh mắt thăm dò nhìn ra phía sau vài lần, những người khác còn đang uống rượu, không ai chú ý chuyện bên này. Hắn tiến đến bên tai Mạnh Nhị Hổ, thấp giọng nói rằng: “Là bạn bè, tôi nghĩ tôi phải nhắc nhở anh, có người nói với Kirov rằng các anh không đáng tin. Hắn bảo các anh tiếp cận tổ chức vì có mưu đồ, còn khuyên Kirov không qua lại với các anh nữa. Thậm chí phải tra xét cẩn thận những người mới gia nhập vào tổ chức.”

“Hả?” Mạnh Nhị Hổ thay đổi sắc mặt, giống như vô cùng tức giận: “Ai thế? Chẳng lẽ Kirov để mặc hắn bôi nhọ tình bạn của chúng ta?!”

“Hắn là một nhân vật lớn.” Tuhachev nói tiếp: “Một người rất có uy tín trong đám công nhân ở St. Petersburg, còn là chủ tịch Xô viết (3) ở đâu ấy.”

(3) Xô viết là tên gọi chung cho các cơ quan đại biểu dân cử của chính quyền nhà nước tại Liên Xô và một vài quốc gia khác từ giai đoạn 1917 tới đầu thập niên 1990, mặc dù ý nghĩa ban đầu của nó là hội đồng công nhân địa phương.

“Đúng là nhân vật lớn nhỉ.” Mạnh Nhị Hổ vờ tỏ ra hết sức kinh ngạc, “Có thể nói cho tôi biết rốt cuộc thì hắn là ai không?”

“Hắn tên là Lev Davidovich Trotsky (4).” Tuhachev quay đầu hô lên một tiếng với nhóm canh phòng ở đằng sau, “cảnh cáo” bọn họ không được uống hết rượu. Sau đó gã lại quay sang nói với Mạnh Nhị Hổ: “Trên thực tế tôi rất ghét người này, các bạn tôi cũng không thích hắn. Thậm chí, hắn còn hoài nghi một đứa trẻ như Mễ Nhĩ Hạ nữa kìa.”

(4) Lev Davidovich Trotsky, tên khi sinh Lev Davidovich Bronstein, là một nhà lý luận cách mạng Bolshevik và Mác xít. Ông là một trong những lãnh đạo của cuộc Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917, chỉ sau Lenin.

“Bạn tôi ơi.” Mạnh Nhị Hổ lộ ra ánh mắt kiên định, nói chắc như đinh đóng cột: “Xin anh tin tưởng rằng, trên thế giới này không có bất kỳ ai phản đối sự thống trị của Nga hoàng bằng chúng ta đâu!”

“Tôi tin mà, anh bạn!”

Trong lúc nói chuyện với gã canh phòng này, Mạnh Nhị Hổ liền quyết định phải nhanh chóng báo tin cho ông già câm. Nếu Kirov thật sự bị tên Trotsky kia tác động mà hoài nghi bọn họ, vậy thì kế hoạch để Kazan xâm nhập vào tổ chức của đám Tây lông cũng sẽ không thuận lợi như dự tính ban đầu.

Ngày 18 tháng 7, Lâu Tổng thống và Lâu phu nhân ngồi xe lửa về thành Quan Bắc. Lâu Thiếu soái và Lý Cẩn Ngôn tự tới nhà ga nghênh đón. Cả nhà xa nhau đã vài tháng, nhưng người thay đổi nhiều nhất chính là Lâu nhị thiếu. Cái cục bột mềm nhũn dường như chạm nhẹ một cái sẽ nát ngày xưa, nay lại càng tròn tròn mập mập, gặp ai cũng cười, khiến người ta nhìn mà sinh lòng yêu thích.

Đương nhiên, trong số những nhân vật có thể khiến Lâu nhị thiếu tươi cười, tuyệt không bao gồm Lâu Tổng thống và Lâu Thiếu soái.

Ba chiếc xe, Lâu Tổng thống và Lâu Thiếu soái ngồi một chiếc, Lý Cẩn Ngôn và Lâu phu nhân ngồi một chiếc, ba bà vợ bé ngồi trong chiếc còn lại. Đoàn xe nối đuối nhau di chuyển từ nhà ga về hướng phủ Đại soái. Phía trước có hai chiếc xe máy do công ty Halley nước Mỹ sản xuất mở đường, đằng sau là một chiếc xe tải cải tạo thành xe quân dụng. Không có những con ngựa và đoàn kỵ sĩ hộ tống ngày xưa, ngược lại, Lâu Tổng thống cảm thấy vô cùng mới lạ.

Ngoại hình và tốc độ của hai chiếc xe máy mở đường này còn kém xa con xe quân dụng kinh điển BMW – R75 (5) của quân Đức trong Thế chiến thứ hai, nhưng ở thời đại bây giờ đã khá là tiên tiến.

(5) BMW – R75: Hình minh họa



So với xe máy BMW, ngoại hình của xe máy Halley (6) thô và ngầu hơn một chút. Những quân nhân đội mũ sắt, mặc quân trang sáu tỉnh Bắc Kỳ ngồi trên xe, không phải chỉ là oai phong bình thường đâu.

(6) Xe máy Halley: Hình minh họa



Ngoài hai chiếc mở đường, trong kho vẫn còn tám chiếc xe máy nữa. Những chiếc xe này đều do công ty Halley hứa sẽ xuất tới Nhật Bản. Bắt đầu từ năm 1912, bọn họ đã có quan hệ làm ăn với người Nhật rồi. Chỉ là không ngờ, giữa đường lại bị Lý Cẩn Ngôn và John cản trở.

John nói với Quản lý công ty Halley những lời lẽ vô cùng thực tế: “Bây giờ Nhật Bản rất nghèo, phải vay tiền người Anh mới có khả năng lấp đầy bụng. Bọn họ có thể thanh toán phần tiền hàng còn lại hay không cũng khó nói lắm. Nhưng Lý thì khác. Chẳng biết các anh đã nghe chuyện cậu ta ký kết đơn hàng với công ty Holt hay chưa, mười cái máy kéo, hai mươi cái xe tải, đều thanh toán trong một lần đấy! Trên thực tế, số tiền đó chẳng là gì với cậu ta cả. Cậu ta còn cần nhiều xe lắm. Bây giờ người nhà của cậu ta đã là nhân vật thống trị cao nhất ở Hoa Hạ rồi. Làm ăn với cậu ta, mới là lựa chọn chính xác nhất.”

Thấy hai viên Quản lý của công ty Halley hơi dao động, John tiếp tục tấn công: “Tôi phải nói với hai vị điều này, ngài Halley, ngài Davis, đối thủ muốn cạnh tranh để giành đơn hàng còn có Đức và Anh. Nếu hai vị không nhanh chóng đưa ra quyết định, vậy thì, khoản lợi nhuận kếch xù trước mắt sẽ bị người Anh và người Đức cướp đi. Sự thật là bọn họ đã tranh giành đến mặt đỏ tía tai rồi.”

Dưới tài khua môi múa mép của John, cuối cùng hai ông chủ của công ty Halley cũng hạ quyết tâm giữ lô hàng sắp xuất sang Nhật Bản lại, bán cho Hoa Hạ!

“Chúng tôi cần một khách hàng có nguồn tài chính ổn định, có thể đảm bảo khả năng thanh toán tiền hàng.” Khi người Nhật tìm tới cửa, người của công ty Halley đã nói với họ rằng: “Chỉ cần bên các anh đảm bảo có thể trả tiền đúng hạn, công ty Halley tuyệt đối sẽ giao hàng như đã hẹn. Thương nhân Mỹ luôn thành thực.”

Suzuki Ryozo thay mặt cho Nhật Bản đi đàm phán, cuối cùng phải rời khỏi văn phòng của Davis trong tức giận. Trên thực tế, cho dù công ty Halley giao hàng đúng hạn, bọn hắn cũng chưa chắc đã có thể thanh toán kịp thời gian. Bị Lâu Tiêu đánh bại, mất đi một đoạn dài trên tuyến đường sắt Nam Mãn Châu, Nhật Bản không còn cách vận chuyển khoáng sản cũng như lương thực từ Hoa Hạ về quốc nội. Nền công – nông nghiệp trong nước chưa hoàn toàn khôi phục từ thời chiến tranh Nga – Nhật, nay lại rơi vào khủng hoảng một lần nữa. Một số tài phiệt không có cuộc sống khá giả. Thậm chí, nhà máy sắt thép Yawata cũng ngừng sản xuất rồi! Một quốc gia gần như là sống dựa vào tiền đi vay, lại đi so với Trung Hoa giàu có, đúng là tự mình rước nhục!

Ra khỏi công ty Halley, Suzuki Ryozo quay đầu nhìn thoáng qua tấm bảng hiệu gắn trên cổng lớn, oán hận mắng một câu: “Đám Mĩ chó chết!”

Sau khi được chuyển đến Hoa Hạ, lô hàng xe máy này lập tức được đưa vào xưởng Công Binh phương Bắc. Nhóm thợ cả trong nhà xưởng thức trắng mấy ngày đêm, tháo rời một chiếc xe, tách từng linh kiện ra để nghiên cứu tỉ mỉ. Cuối cùng, bọn họ nói với Lý Cẩn Ngôn rằng, chỉ cần có đủ nguyên vật liệu thích hợp thì dù là dùng tay không bọn họ cũng có thể chế tạo ra thành phẩm đàng hoàng.

Quản đốc Đỗ Duy Nghiêm đã không còn cảm thấy kỳ quái trước những ý tưởng bất ngờ của Lý tam thiếu gia. Thậm chí khi Lý Cẩn Ngôn bàn bạc với nhóm thợ cả xem có thể cải tiến thân xe, nhằm gắn thêm thùng xe vào bên cạnh, ông ta cũng chẳng hề mở miệng hỏi han lấy một câu.

Ngược lại, Lý Cẩn Ngôn lại lên tiếng trước: “Quản đốc Đỗ, chẳng lẽ ông không muốn hỏi gì sao?”

“Nếu hỏi, Ngôn thiếu gia sẽ nói cho tôi biết hả?”

“… E là không.”

“…” Vậy ông còn hỏi làm cái khỉ gì nữa!

Trong khoảng thời gian này, người dân trong thành Quan Bắc đã quen với việc nhìn thấy xe máy hai bánh chạy vùn vụt ở trên đường. Tuy nhiên, bọn họ lại cảm thấy hiếu kỳ với những chiếc “nồi” trên đầu các anh lính hơn. Một đám quân nhân đội mũ sắt trên đầu, thế mà bộ dáng còn rất ưa nhìn.

“Tiêu Nhi, chuyện gì đây?”

Lâu Tổng thống ngồi ở trong xe, hiển nhiên cũng cảm thấy hứng thú đối với những quân nhân đội mũ sắt lái xe máy đi ở phía trước.

“Cái gì trên đầu họ kia?”

“Mũ sắt.” Phun ra hai chữ này, Lâu Thiếu soái liền không nói thêm gì nữa.

Lâu Tổng thống: “…”

Cuối cùng vẫn là Sĩ quan phụ tá Quý ngồi ở ghế phụ lái quay lại giải thích thắc mắc của Lâu Tổng thống. Sau khi hắn nói chi tiết về công dụng của mũ sắt, Lâu Tổng thống không khỏi chậc lưỡi vì kinh ngạc.

“Có thể chống đạn pháo thật à?”

“Không phải chống đạn pháo, chỉ có thể chặn các mảnh vỡ của đạn bắn tới, nhằm bảo vệ phần đầu của các chiến sĩ thôi.” Sĩ quan phụ tá Quý nói: “Lô mũ được kiểm nghiệm đã được mang ra dùng thử rồi.”

“Cái này do ai nghĩ ra?”

“Ngôn thiếu gia và vài thợ cả trong xưởng Công Binh cùng nghĩ ra.”

Trên thực tế, Lý Cẩn Ngôn đưa ra một khái niệm, còn quá trình thiết kế và chế tác cụ thể đều do nhóm thợ cả tự tay thực hiện. Lý Cẩn Ngôn vốn đề xuất loại mũ có vành như cái “đĩa” của người Anh, nhưng thành phẩm được làm ra lại khác xa vạn dặm.

Khi chiếc mũ sắt đầu tiên được đưa đến trước mặt, Lý Cẩn Ngôn kinh ngạc đến mức gần như không ngậm được miệng lại. Hắn thật sự muốn hỏi mấy người thợ cả một câu: quân nhân cấp bậc nào cũng được đội thứ này hả?

Trừ việc không có huy hiệu chim ưng ra thì đây đúng là loại mũ sắt của Quân đội Đức trong Thế chiến thứ hai mà!

Sau khi thử nghiệm tác dụng thực tế của mũ sắt ở sân tập, Lâu Thiếu soái trực tiếp hạ lệnh, các Sư đoàn của sáu tỉnh Bắc Kỳ lần lượt được trang bị mũ sắt. Đương nhiên, đơn vị đầu tiên sẽ là Lữ đoàn Độc Lập của Lâu Thiếu soái.

Tuy nhiên, lúc bàn bạc với Đỗ Duy Nghiêm và nhóm thợ cả, Lý Cẩn Ngôn có nói, quân đội của chúng ta sẽ dùng loại mũ này, nhưng vẫn phải sản xuất một lô mũ sẵn có vành tương tự mũ cói.

“Tạm thời đừng hỏi tôi lý do.” Trước vẻ mặt đầy nghi hoặc của mọi người, Lý Cẩn Ngôn nói phủ đầu: “Tin tôi đi, chắc chắn sẽ có lúc cần đến.”

Bình luận

Truyện đang đọc